Nguyễn Chí Vịnh
Nguyễn Chí Vịnh | |
---|---|
Tướng Nguyễn Chí Vịnh năm 2010 | |
Biệt danh | Đàm Nhắc |
Sinh | 15 tháng 5, 1957 Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Thuộc | Quân đội Nhân dân Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1976 - nay |
Cấp bậc | Tập tin:Vietnam People's Army Colonel General.jpgThượng tướng |
Chỉ huy | Tổng cục Tình báo |
Tặng thưởng | Huân chương Quân công hạng Nhì Huân chương Chiến thắng hạng Nhì ... |
Nguyễn Chí Vịnh (sinh năm 1957) là một chính khách và sĩ quan cấp cao trong Quân đội Nhân dân Việt Nam.Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông từng giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục 2[1], lãnh đạo công tác tình báo quân đội trong vòng gần 8 năm từ 2002 đến 2009.
Thân thế
Ông sinh ngày 15 tháng 5 năm 1957[2] tại Hà Nội, nguyên quán ở thôn Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông là con trai út của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Nguyên tên Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là Nguyễn Vịnh, vì vậy về sau ông lấy tên khai sinh của mình đặt tên cho con trai út là Nguyễn Chí Vịnh.[3]. Mẹ là bà Nguyễn Thị Cúc. Chị gái là Nguyễn Thanh Hà, nguyên Phó Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Vietjet Cargo.
Sự nghiệp
Năm 1964 đến 1974, học sinh Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi, Trường Văn hóa Quân đội.
Năm 1974 đến 1976, Học sinh trường Cấp 3 Lý Thường Kiệt nay là trường Trung học Phổ thông Việt Đức - Hà Nội.
Năm 1976, Thi đỗ vào học Khóa 11, Học viện Kỹ thuật Quân sự. Từ năm 1978 đến tháng 8 năm 1980 ông đi rèn luyện thực tế tại một đơn vị ở Thanh Hóa, tháng 8 năm 1980, ông chuyển sang học trường Sĩ quan Thông tin.
Năm 1983, tốt nghiệp Trường Sĩ quan Thông tin, ra trường phong hàm Trung úy, về nhận công tác tại Cục Nghiên cứu (Cục Tình báo- Bộ Quốc phòng). Trong quá trình công tác, ông luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Vì vậy, chỉ trong vòng 10 năm, ông liên tục được bổ nhiệm giữ các chức vụ quan trọng và được thăng quân hàm vượt cấp.
Năm 1991 (34 tuổi), Bổ nhiệm chức vụ Trưởng phòng (thuộc Cục 12, Tổng cục 2). Thăng quân hàm Thượng tá.
Tháng 2 năm 1995, ông được giao nhiệm vụ Phụ trách Cục 12 Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng.
Tháng 5 năm 1995 (38 tuổi), Bổ nhiệm chức vụ Phó Cục trưởng Cục 12, thăng quân hàm Đại tá.
Năm 1996, Bổ nhiệm chức vụ Cục trưởng Cục 12, Tổng cục 2.
Năm 1998, Bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2.
Năm 1999, (42 tuổi), ông được Thủ tướng Chính phủ thăng quân hàm Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm 2002 (45 tuổi), Bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng.[1] Ông là người góp phần lớn trong việc giữ vững sự tồn tại và phát triển của Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng. Trong thời gian đảm nhiệm cương vị Tổng cục trưởng Tổng cục 2 (2002 - 2009), nhiều đơn vị dưới quyền được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác[4]
Năm 2003, bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
Tháng 12 năm 2004 (47 tuổi), được Thủ tướng Chính phủ Thăng Quân hàm Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 2 năm 2009 (52 tuổi), Bổ nhiệm giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. phụ trách công tác tình báo và ngoại giao.[5][6] Tháng 8 năm 2009, ông thôi kiêm nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục 2.
Ngày 27 tháng 4 năm 2010, được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước trao học hàm Phó Giáo sư chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
Tháng 12 năm 2011, (54 tuổi) được Chủ tịch nước thăng Quân hàm Thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011-2016), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 27 tháng 1 năm 2016, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII.
Ngày 29 tháng 4 năm 2016, được Bộ Chính trị chỉ định tham gia Thường vụ Quân ủy Trung ương.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Trích dẫn
“ | Càng căng thẳng thì càng phải độc lập tự chủ. Càng căng thẳng thì càng không bao giờ để kéo vào những liên minh với nước này để chống nước khác. Đó là nguyên tắc không chỉ bây giờ mà còn từ xưa trong việc bảo vệ tổ quốc. Việt Nam là bạn, là đối tác nhưng không tham gia liên minh quân sự.[7] | ” |
Gia đình riêng
- Bố đẻ: Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Bố vợ: Trung tướng Đặng Vũ Chính, tức Đặng Văn Trung, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng Việt Nam (từ năm 1994 đến năm 2002).
- Con gái.
- Con gái.
Chú thích
- ^ a b Thế Vinh - Hà Trường (ngày 24 tháng 3 năm 2008). “Tình báo quốc phòng phải vững chắc, nhạy bén hơn nữa”. Báo Vietnamnet. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
- ^ Đồng chí Nguyễn Chí Vịnh
- ^ Nguyệt Tú - Nguyệt Tĩnh (ngày 4 tháng 2 năm 2006). “Chuyện tình yêu của đại tướng Nguyễn Chí Thanh”. Báo Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
- ^ Những chiến công thầm lặng - Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng xuất bản tháng 3 năm 2008, Hà Nội
- ^ “Việt Nam-Trung Quốc tăng cường quan hệ quốc phòng”. BBC. ngày 2 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
- ^ Đức Thịnh (ngày 17 tháng 7 năm 2009). “Lãnh đạo Bộ Quốc phòng tặng nhà tình nghĩa gia đình chính sách”. Báo Quân đội Nhân dân. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
- ^ [1],tuoitre, 21.07.2015
Liên kết ngoài
- Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ chủ quyền - Vnexpress ngày 6/6/2011.
- “Việt Nam-Trung Quốc tăng cường quan hệ quốc phòng”. BBC. ngày 2 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
- “Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm việc tại Nhật Bản”. Thông tấn xã Việt Nam. ngày 28 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
- Sinh năm 1957
- Nhân vật còn sống
- Người Thừa Thiên-Huế
- Người Hà Nội
- Điệp viên Việt Nam
- Cựu sinh viên Học viện Kỹ thuật Quân sự
- Tiến sĩ Việt Nam
- Thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Tổng cục Tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Huân chương Chiến thắng
- Huân chương Quân công
- Hạt giống đỏ
- Sinh ở Hà Nội
- Họ Nguyễn Việt Nam