Blurryface
Blurryface | ||||
---|---|---|---|---|
Album phòng thu của Twenty One Pilots | ||||
Phát hành | 17 tháng 5 năm 2015 | |||
Phòng thu |
| |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 52:23 | |||
Hãng đĩa | Fueled by Ramen | |||
Sản xuất | ||||
Thứ tự album của Twenty One Pilots | ||||
| ||||
Đĩa đơn từ Blurryface | ||||
|
Blurryface (cách điệu thành BLURRYFΛCE) là album phòng thu thứ tư của bộ đôi âm nhạc Mỹ Twenty One Pilots. Đây là album thứ hai của ban nhạc được phát hành qua Fueled by Ramen. Ban đầu được dự kiến phát hành ngày 19 tháng 5 năm 2015, nó được phát hành sớm hơn hai ngày vào ngày 17 tháng 5, qua iTunes.[9] Album được kế tiếp bằng đĩa đơn đầu tiên, "Fairly Local", phát hành ngày 17 tháng 3 năm 2015. Tính tới tháng 7 năm 2016, album đã bán được hơn 1 triệu bản tại Hoa Kỳ.[10] Năm đĩa đơn từ album này đã lọt vào top 5 bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trong đó có "Stressed Out" và "Ride", lần lượt đạt vị trí thứ hai và thứ năm.
Bối cảnh và thu âm
[sửa | sửa mã nguồn]Tiếp theo sau album thứ hai của họ Vessel (2013), ban nhạc tổ chức lưu diễn tại nhiều địa điểm để quảng bá cho album trên toàn cầu.[11] Trong khi lưu diễn họ có một phòng thu âm di động để họ có thể đặt ra những ý tưởng mới.[12]
"Heavydirtysoul", "Ride", "Fairly Local", "Tear in My Heart", "Lane Boy" và "Doubt" được thu âm với nhà sản xuất Ricky Reed tại phòng thu Serenity West Recording ở Hollywood, California. "Stressed Out", "Polarize", "Hometown" và "Not Today" được thu âm với nhà sản xuất Mike Elizondo tại Can Am ở Tarzana, California. "Ride" được thu âm với Reed tại Sonic Lounge Studios ở Grove City, Ohio. "The Judge" được thu âm với nhà sản xuất Mike Crossey tại Livingston Studios ở London. "We Don't Believe What's on TV" và "Goner" được thu âm cùng với Reed tại Paramount Recording Studios ở Hollywood, California. "Message Man" được thu âm với Tim Anderson tại Werewolf Heart ở Los Angeles, California. Album được mix bởi Neal Avron, với sự trợ giúp của Scott Skrzynski, tại The Casita ở Hollywood, California. Album được master bởi Chris Gehringer tại Sterling Sound ở Thành phố New York.[13]
Tựa đề và đồ họa
[sửa | sửa mã nguồn]Album được đặt tên theo một nhân vật mà ban nhạc tự tạo nên có tên là Blurryface. Theo Joseph, nhân vật này "tượng trưng cho tất cả những gì mà không chỉ riêng tôi, mà mọi người xung quanh đều cảm thấy bất ổn."[14] Joseph dùng sơn màu đen sơn lên tay và cổ anh trong các buổi diễn trực tiếp và trong các video âm nhạc trong album, để tượng trưng cho Blurryface, nói rằng: "Rất kịch tính. Tôi biết, nhưng nó giúp tôi nhập tâm vào nhân vật."[15]
Chỉ đạo và thiết kế cho các đồ họa trong album được thực hiện bởi Brandon Rike, Reel Bear Media và Virgilio Tzaj.[13] Rob Gold là quản lý đồ họa, trong khi Josh Skubel chịu trách nhiệm sản xuất gói.[13] Jabari Jacobs cung cấp ảnh.[13] Rike có nhắc đễn trong blog của anh về cảm giác khác biệt của đồ họa trong Vessel và màu đỏ trong Blurryface là "màu của sự đam mê, mãnh liệt và giận dữ".[16]
Phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 17 tháng 3 năm 2015, ban nhạc công bố tựa đề, danh sách bài hát và ngày ra mắt của album.[17] Trang web của ban nhạc đã bị quá tải do quá nhiều người hâm mộ cố gắng đặt trước album.[18] Ban nhạc đã phát hành đĩa đơn mới "Fairly Local" cùng ngày khi video âm nhạc của nó được đăng tải trên kênh YouTube của Fueled by Ramen.[19]
Vào ngày 6 tháng 4, ban nhạc phát hành đĩa đơn thứ hai từ album, "Tear in My Heart", cùng với video âm nhạc chính thức trên YouTube.[20] "Tear in My Heart" được phát hành trên radio ngày 14 tháng 4 năm 2015.[21] Đĩa đơn thứ ba, "Stressed Out", được phát hành ngày 28 tháng 4[22][23] cùng với một video âm nhạc.[24] Vào ngày 4 tháng 5 năm 2015, ban nhạc đăng lên YouTube bản audio của bài hát thứ 6 trong album, "Lane Boy",[25] và phát hành "Ride" bảy ngày sau đó cũng trên YouTube;[26] cả hai đều là các đĩa đơn, được phát hành lần lượt vào các ngày 4 và 12 tháng 5.[6][7] Trong khoảng từ ngày 11 đến ngày 14 ban nhạc lưu diễn tại Anh Quốc.[27] Video âm nhạc cho "Ride" được phát hành ngày 14 tháng 5,[28] được đạo diễn bởi Reel Bear Media.[29]
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2015, bộ đôi biểu diễn tại nhà hát iHeartRadio Theater LA ở Burbank, CA để chào mừng album được phát hành.[30] Buổi diễn được phát trực tuyến trên trang web của iHeartRadio. Ban nhạc đã tổ chức các buổi diễn và biểu diễn tại các lễ hội từ ngày 19 tháng 5 đến ngày 4 tháng 12.[31] Vào ngày 20 tháng 7, video âm nhạc cho "Lane Boy" được phát hành.[32] Ban nhạc biểu diễn tại Anh Quốc vào tháng 11.[33] Chuyến lưu diễn đã bán hết vé chỉ trong vài phút.[34]
Đánh giá chuyên môn
[sửa | sửa mã nguồn]Đánh giá chuyên môn | |
---|---|
Điểm trung bình | |
Nguồn | Đánh giá |
Metacritic | 80/100[35] |
Nguồn đánh giá | |
Nguồn | Đánh giá |
AllMusic | [36] |
Alternative Press | [37] |
The Austin Chronicle | [4] |
Billboard | [5] |
Cleveland.com | B[38] |
Rolling Stone Australia | [39] |
Sputnikmusic | 3.5/5[2] |
Blurryface nhận được chủ yếu các đánh giá tích cực từ giới phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, một trang mạng tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình trên thang điểm 100, album nhận được số điểm 80, dựa trên 5 đánh giá, đồng nghĩa với "đánh giá tích cực".[35] Garrett Kamps của Billboard nói rằng album như một "đống hỗn độn (theo một cách tốt)", nhưng lại cho album đánh giá trung bình, nói rằng Blurryface "có thể chưa đạt tới tầm cao như Vessel".[5]
Sputnikmusic và Alternative Press cho Blurryface các đánh giá tốt, sau đó càng trở nên tích cực hơn. Nhà phê bình của họ, Jason Pettigrew, mô tả album là "tuyệt vời" và khen ngợi sự trộn lẫn các thể loại trong bài hát của họ, nêu nổi bật các bài hát "Ride", "Polarize", "Message Man", "Tear in My Heart", "We Don't Believe What's on TV", "Goner" và "Lane Boy" trong đánh giá của anh.[37]
Album được xếp hạng thứ nhất trong danh sách "10 Bản thu âm Hàng đầu Năm 2015" của Alternative Press.[3] Jason Pettigrew của Alternative Press viết rằng ban nhạc đã kết hợp "tầm nhìn của hip-hop, màu sắc của reggae, sự phổ biến của pop, nhịp điện tử gấp rút đầy dữ dội và gây chiến với nỗi buồn thành một bản thu gắn kết khó có thể tưởng tượng được."[3] Album được xếp vị trí thứ hai trong danh sách top 50 bản phát hành năm 2015 của Rock Sound.[40] Blurryface được đề cử giải "Album của năm" tại Giải thưởng âm nhạc Alternative Press năm 2016.[41] Album cũng giành chiến thắng trong hạng mục "Top album nhạc rock" tại Giải thưởng âm nhạc Billboard.[42]
Thành công thương mại
[sửa | sửa mã nguồn]Blurryface khởi đầu tại vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Billboard 200, kiếm được 147.000 đơn vị album tương đương (ứng với doanh số album 134.000) tại Hoa Kỳ trong tuần đầu tiên, khiến nó trở thành album được xếp hạng cao nhất của Twenty One Pilots và đánh dấu tuần đầu tiên có doanh thu cao nhất tại Hoa Kỳ của ban nhạc.[43] Nhóm nhạc cũng có sự xuất hiện đầu tiên trong top 40 tại Anh Quốc với việc Blurryface khởi đầu tại vị trí thứ 14. Tới tháng 11 năm 2015, album đã bán được 500.000 bản trên toàn cầu.[44] Trong tháng tiếp theo, doanh thu tại Hoa Kỳ của album được công bố là hơn 505.000 bản.[45] Tới tháng 1 năm 2016, album đã bán được 592.000 bản tại Hoa Kỳ.[46] Hai tháng sau, doanh số tại Hoa Kỳ đã tăng lên 753.000 bản.[47] Tới cuối tháng 3, doanh số tại Hoa Kỳ đạt 792.000 bản.[48] Tới giữa tháng 6, album bán được 924.000 bản,[49] và hơn 1 triệu bản tới giữa tháng 7.[50] Album đã được chứng nhận vàng tại Canada[51] và bạch kim hai lần tại Hoa Kỳ.[52]
Lưu diễn
[sửa | sửa mã nguồn]Twenty One Pilots đã có chuyến lưu diễn đầu tiên tập trung vào Blurryface trong năm 2015, với tên gọi Blurryface Tour, Đây là một chuyến lưu diễn quốc tế, trong đó bộ đôi này đã biểu diễn 113 chương trình trên toàn cầu. Chuyến lưu diễn bắt đầu ngày 11 tháng 5 năm 2015 tại Glasgow, và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 2016 tại Bunbury. Echosmith và Finish Ticket đã mở đầu cho buổi diễn tại Bắc Mỹ.[53]
Twenty One Pilots bắt đầu chuyến lưu diễn Emotional Roadshow World Tour vào năm 2016, tập trung chủ yếu vào album và nhân vật Blurryface. Vào ngày 26 tháng 10 năm 2015, các ngày của chuyến lưu diễn được thông báo bắt đầu từ Cincinnati đến Thành phố New York.[54] Vào ngày 9 tháng 5 năm 2016, thêm nhiều thời gian biểu diễn nữa được thông báo bao gồm các nước châu Âu, thêm các nước châu Mỹ khác và châu Đại Dương.[55] Chuyến lưu diễn bắt đầu ngày 31 tháng 5 năm 2016, tại sân vận động US Bank Arena ở Cincinnati, và được dự kiến kết thúc ngày 8 tháng 4 năm 2017, tại sân vận động Perth Arena ở Perth.
Danh sách bài hát
[sửa | sửa mã nguồn]Tất cả bài hát được viết bởi Tyler Joseph.[13]
STT | Nhan đề | Sản xuất | Thời lượng |
---|---|---|---|
1. | "Heavydirtysoul" | Ricky Reed | 3:54 |
2. | "Stressed Out" | Mike Elizondo | 3:22 |
3. | "Ride" | Reed | 3:34 |
4. | "Fairly Local" | Reed | 3:27 |
5. | "Tear in My Heart" | Reed | 3:08 |
6. | "Lane Boy" | Reed | 4:13 |
7. | "The Judge" | Mike Crossey | 4:57 |
8. | "Doubt" | Reed | 3:11 |
9. | "Polarize" | Elizondo | 3:46 |
10. | "We Don't Believe What's on TV" | Reed | 2:57 |
11. | "Message Man" | Tim Anderson | 4:00 |
12. | "Hometown" | Elizondo | 3:54 |
13. | "Not Today" | Elizondo | 3:58 |
14. | "Goner" | Reed | 3:56 |
Các bài hát bổ sung trong phiên bản tại Nhật Bản[56] | |||
---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Sản xuất | Thời lượng |
15. | "Guns for Hands" | Greg Wells | 4:30 |
16. | "Lovely" | Wells | 4:18 |
Xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng hàng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Bảng xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Chứng nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Úc (ARIA)[88] | Vàng | 35.000^ |
Canada (Music Canada)[51] | Bạch kim | 80.000^ |
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[89] | Vàng | 10.000 |
New Zealand (RMNZ)[90] | Vàng | 7.500^ |
Ba Lan (ZPAV)[91] | Bạch kim | 20.000 |
Anh Quốc (BPI)[92] | Vàng | 100.000 |
Hoa Kỳ (RIAA)[52] | 2× Bạch kim | 1,005,000[50] |
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng. |
Lịch sử phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia | Ngày |
---|---|
Úc[93] | 15 tháng 5 năm 2015 |
Đức | |
Nhật Bản | |
Ireland | |
Hà Lan | |
Phần Lan | 16 tháng 5 năm 2015 |
Đan Mạch | |
Pháp | |
Ba Lan | |
Anh | |
Châu Âu | 17 tháng 5 năm 2015 |
Canada | |
Hoa Kỳ |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Chú thích
- ^ a b c Curcic, Andja (ngày 5 tháng 6 năm 2015). “Album Review: Twenty One Pilots – Blurryface”. Renowned for Sound. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b c d e SowingSeason (ngày 20 tháng 5 năm 2015). “Twenty One Pilots – Blurryface”. Sputnikmusic. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2015.
- ^ a b c d e Pettigrew 2015, p. 96
- ^ a b Curtin, Kevin (ngày 2 tháng 10 năm 2015). “ACL Fest 2015 Saturday Record Review – Twenty One Pilots: Blurryface (Fueled by Ramen)”. The Austin Chronicle. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2015.
- ^ a b c Kamps, Garrett (ngày 19 tháng 5 năm 2015). “Pop Duo Twenty One Pilots Makes a Hot Mess (in a Good Way) on 'Blurryface': Album Review”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2015.
- ^ a b “Lane Boy - Twenty One Pilots - Release Credits - AllMusic”. AllMusic. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2015.
- ^ a b “Ride - Twenty One Pilots - Release Credits - AllMusic”. AllMusic. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2015.
- ^ “Heavydirtyoul Earns Most Added”. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2016.
- ^ “SURPRISE! Twenty One Pilots Release "Blurryface" Early!”. Radio 104.5. ngày 17 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.
- ^ Caulfield, Keith (ngày 29 tháng 7 năm 2016). “Billboard 200 Chart Moves: Twenty One Pilots' 'Blurryface' Surpasses 1 Million Hoa Kỳ Sales”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
- ^ Thomas, Fred. “Twenty One Pilots | Biography”. allmusic.com. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
- ^ Tom (ngày 14 tháng 6 năm 2014). “"We're used to not fitting in…" – twenty one pilots”. HMV. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2015.
- ^ a b c d e Blurryface (Booklet). Twenty One Pilots. Fueled by Ramen. 2015. 7567-86692-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
- ^ “Twenty One Pilots Explain Why Their Album Is Called "Blurry Face" - MTV News”. YouTube. ngày 28 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Um, Why Is The Dude From Twenty One Pilots Covered In Black Goo?”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2016.
- ^ Ritchie, Andy (ngày 17 tháng 3 năm 2015). “Twenty One Pilots Just Dropped A New Track, Announced An Album And Four UK Dates. WOW”. Rock Sound Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
- ^ Bird, Ryan (tháng 7 năm 2015). Bird, Ryan (biên tập). “Who Are Ya?”. Rock Sound. London: Freeway Press Inc. (201): 69. ISSN 1465-0185.
- ^ Whitt, Cassie. “Hear twenty one pilots' eerie new single "Fairly Local" from impending album 'Blurryface' - Alternative Press”. Alternative Press. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2015.
- ^ twenty one pilots: Tear In My Heart [Official Video]; YouTube, 6 tháng 4 năm 2015
- ^ “FMQB Airplay Archive: Modern Rock”. Friday Morning Quarterback Album Report, Incorporated. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
- ^ “Twenty One Pilots: Stressed Out - Music on Google Play”. google.com. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Twenty One Pilots - Stressed Out MP3 Music”. cduniverse.com. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2015.
- ^ Biddulph, Andy (ngày 28 tháng 4 năm 2015). “This New Twenty One Pilots Video Is Adorable”. Rock Sound Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
- ^ Emily. “twenty one pilots Stream New Song, Lane Boy”. Kerrang!. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2015.
- ^ twenty one pilots: Ride (Audio). YouTube. ngày 11 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2015.
- ^ Biddulph, Andy (ngày 28 tháng 4 năm 2015). “This Twenty One Pilots Video Is Really Quite Confusing”. Rock Sound Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
- ^ Biddulph, Andy (ngày 14 tháng 5 năm 2015). “Twenty One Pilots Have Posted A (Quite Literally) Dark Video For 'Ride'”. Rock Sound Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
- ^ twenty one pilots: Ride (Video). YouTube. ngày 13 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
- ^ “iHeartRadio LIVE with twenty one pilots”. iHeartRadio. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Tour”. Twenty One Pilots' official website. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
- ^ Biddulph, Andy (ngày 20 tháng 7 năm 2015). “Watch Twenty One Pilots' Video For 'Lane Boy'”. Rock Sound Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2015.
- ^ Biddulph, Andy (ngày 12 tháng 5 năm 2015). “Twenty One Pilots Unveil New Track, Announce ANOTHER UK Tour”. Rock Sound Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
- ^ Travers 2015, p. 5
- ^ a b “Reviews for Blurryface by Twenty One Pilots”. Metacritic. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2016.
- ^ Yeung, Neil Z. “Blurryface – Twenty One Pilots”. AllMusic. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2016.
- ^ a b Pettigrew, Jason (ngày 19 tháng 5 năm 2015). “twenty one pilots – Blurryface”. Alternative Press. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2015.
- ^ Smith, Troy L. (ngày 18 tháng 5 năm 2015). “Twenty One Pilots' 'Blurryface' leaves a haze of disappointment (album review)”. Cleveland.com. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
- ^ Yates, Rod (ngày 11 tháng 5 năm 2015). “Twenty-One Pilots – Blurryface”. Rolling Stone Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
- ^ Bird, ed. 2016, p. 29
- ^ Whitt, Cassie (ngày 18 tháng 3 năm 2016). “Here are the nominees for the 2016 AP Music Awards!”. Alternative Press. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2016.
- ^ “Billboard Music Awards 2016: Complete Winners List”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2016.
|tên 1=
thiếu|tên 1=
(trợ giúp) - ^ “Blurryface flies to number one of Billboard 200”. Billboard.
- ^ Garner 2015, p. 21
- ^ Caulfield, Keith (ngày 23 tháng 12 năm 2015). “Billboard 200 Chart Moves: Taylor Swift's 'Fearless' Surpasses 7 Million Sold in Hoa Kỳ”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015.
- ^ Caulfield, Keith (ngày 4 tháng 1 năm 2016). “Adele's Hello Tops Hot 100 for 10th Week as Twenty One Pilots Fly to Top 10”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
- ^ Trust, Gary (ngày 3 tháng 3 năm 2016). “Twenty One Pilots Fly to No. 1 on Pop Songs Chart With 'Stressed Out'”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2016.
- ^ Rutherford, Kevin (ngày 29 tháng 3 năm 2016). “Twenty One Pilots 'Ride' to No. 1 on Alternative Songs Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016.
- ^ Rutherford, Kevin (ngày 16 tháng 6 năm 2016). “Twenty One Pilots' 'Ride' Replaces Their Own 'Stressed Out' Atop Hot Rock Songs Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
- ^ a b Caulfield, Keith (ngày 29 tháng 7 năm 2016). “Billboard 200 Chart Moves: Twenty One Pilots' 'Blurryface' Surpasses 1 Million Hoa Kỳ Sales”. Billboard. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2016.
- ^ a b “Chứng nhận album Canada – Twenty One Pilots – Blurry Face” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
- ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Twenty One Pilots – Blurryface” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
- ^ Kuchik, Natalie (ngày 20 tháng 3 năm 2015). “Twenty One Pilots reveal tour dates for the fall of 2015”. AXS. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2016.
- ^ Haskoor, Michael (ngày 28 tháng 10 năm 2015). “Twenty One Pilots Announce Huge Arena Tour, 2016's 'Emotional Roadshow'”. Music Times. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2015.
- ^ Payne, Chris (ngày 9 tháng 5 năm 2016). “Twenty One Pilots Announces Emotional Roadshow World Tour: See Dates Here”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2016.
- ^ “ブラーリーフェイス” [Blurryface] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2015.
- ^ "Australiancharts.com – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2015.
- ^ "Austriancharts.at – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016.
- ^ "Ultratop.be – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Ultratop.be – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Twenty One Pilots Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
- ^ “Hitlisten.NU - Danmarks officielle hitlister”. Tracklisten. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Dutchcharts.nl – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Twenty One Pilots: Blurryface" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Lescharts.com – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.
- ^ "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2016 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
- ^ "Album Top 40 slágerlista – 2016. 25. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2016.
- ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 34, 2016". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Italiancharts.com – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2016.
- ^ “トゥエンティ・ワン・パイロッツの作品” [Twenty One Pilots] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Gaon Weekly Albums Chart April 24–30, 2016”. Gaon Music Chart. South Korea. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.
- ^ “Top Album - Semanal”. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2016.
- ^ “NZ Top 40 Albums Chart”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2016.
- ^ “VG-lista - Topp 40 Album uke 31, 2016”. VG-lista. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Portuguesecharts.com – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Spanishcharts.com – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Swedishcharts.com – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2016.
- ^ "Swisscharts.com – Twenty One Pilots – Blurryface" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2016.
- ^ 2 tháng 9 năm 2016/7502/ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2016.
- ^ “Twenty One Pilots – Chart history (Billboard 200)”. billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Vinyl Albums: Aug 22, 2015”. billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2015.
- ^ “Top Billboard 200 Albums: Dec 31, 2015 | Billboard Chart Archive”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Digital Albums: Dec 31, 2015 | Billboard Chart Archive”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Top Rock Albums: Dec 31, 2015 | Billboard Chart Archive”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Top Canadian Albums - Year-End 2016”. Billboard. Truy cập 31 tháng 12 năm 2016.
- ^ “Top Billboard 200 Albums - Year-End 2016”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2016.
- ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2016 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2016.
- ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Twenty One Pilots – Blurryface” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2016.
- ^ “Chứng nhận album New Zealand – Twenty One Pilots – Blurryface” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2016 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2016.
- ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Twenty One Pilots – Blurryface” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2016. Chọn album trong phần Format. Chọn Vàng' ở phần Certification. Nhập Blurryface vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
- ^ “Blurryface”. JB Hi-Fi. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2015.
- Nguồn
- Bird, Ryan biên tập (tháng 1 năm 2016). “Top 50 Releases of the Year”. Rock Sound. London: Freeway Press Inc. (208). ISSN 1465-0185.
- Garner, George (ngày 7 tháng 11 năm 2015). McMahon, James (biên tập). “On the Road”. Kerrang!. London: Bauer Media Group (1593). ISSN 0262-6624.
- Pettigrew, Jason (tháng 12 năm 2015). “10 Essential Records of 2015”. Alternative Press. Cleveland: Alternative Press Magazine, Inc. (330). ISSN 1065-1667.
- Travers, Paul (ngày 27 tháng 6 năm 2015). McMahon, James (biên tập). “Twenty One Pilots: The World at Their Feet”. Kerrang!. London: Bauer Media Group (1574). ISSN 0262-6624.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Blurryface tại YouTube (streamed copy where licensed)