Content-Length: 1338222 | pFad | http://vi.wikipedia.org/wiki/Folklore_(album)

Folklore (album) – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Folklore (album)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Folklore
Bìa phiên bản tiêu chuẩn, hay còn gọi là phiên bản "In the Tree" Edition[a]
Album phòng thu của Taylor Swift
Phát hành24 tháng 7 năm 2020 (2020-07-24)
Thu âm2020
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng63:29
Hãng đĩaRepublic Records
Sản xuất
Thứ tự album của Taylor Swift
Live from Clear Channel Stripped 2008
(2020)
Folklore
(2020)
Folklore: The Long Pond Studio Sessions
(2020)
Bìa đĩa khác
Bìa phiên bản Deluxe Edition phát hành độc quyền bởi Target, hay còn gọi là phiên bản "Meet Me Behind the Mall" Edition[2]
Bìa phiên bản Deluxe Edition phát hành độc quyền bởi Target, hay còn gọi là phiên bản "Meet Me Behind the Mall" Edition[2]
Đĩa đơn từ Folklore
  1. "Cardigan"
    Phát hành: 27 tháng 7 năm 2020
  2. "Exile"
    Phát hành: 3 tháng 8 năm 2020
  3. "Betty"
    Phát hành: 17 tháng 8 năm 2020

Folklore (viết cách điệu: folklore) là album phòng thu thứ tám của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Republic Records phát hành bất ngờ vào ngày 24 tháng 7 năm 2020. Sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát vào đầu năm 2020, Swift hủy bỏ chuyến lưu diễn quảng bá cho album phòng thu thứ bảy Lover (2019). Cô miêu tả tác phẩm này là "một tập hợp những bản nhạc và câu chuyện tuôn trào như dòng ý thức" trỗi dậy từ trí tưởng tượng của bản thân, với sự giúp sức từ hai nhà sản xuất cộng sự Aaron DessnerJack Antonoff. Dessner và Antonoff lần lượt thực hiện các bản thu tại phòng thu âm ở Thung lũng Hudson và Thành phố New York, trong khi đó Swift thu âm phần giọng hát tại phòng thu tại gia ở Los Angeles.

Folklore đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt so với những album mang hơi hướng pop trước đây của Swift khi đi theo dòng nhạc indie folk, electro-folkalternative rock, thể hiện qua những bản ballad êm dịu được tạo nên từ âm thanh của các nhạc cụ tân cổ điển. Phần ca từ của tác phẩm đào sâu vào chủ đề về cảm giác hoài niệm, sự thoát ly, sự đồng điệu và chủ nghĩa lãng mạn, khám phá những câu chuyện hư cấu thông qua nhiều tuyến nhân vật và hồi truyện khác nhau – điều này trái ngược hoàn toàn với phong cách tự truyện quen thuộc trong các album trước đó của Swift. Tiêu đề album được lấy cảm hứng từ mong muốn của nữ ca sĩ trong việc tạo nên một sản phẩm âm nhạc mang tính di sản và có thể lưu truyền như những bài dân ca, trong khi đó phần nhìn của album đi theo phong cách cottagecore.

Sau khi phát hành, Folklore phá vỡ kỷ lục cho thành tích ngày ra mắt cao nhất trên Spotify đối với album của một nữ ca sĩ.[b] Album đạt vị trí dẫn đầu trên các bảng xếp hạng ở Úc, Canada, Ireland, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Đây cũng là album quán quân thứ bảy liên tiếp của Swift trên bảng xếp hạng Billboard 200, sau đó giữ vững vị trí dẫn đầu này trong tám tuần liên tiếp, trở thành album bán chạy nhất năm 2020 ở thị trường Hoa Kỳ. Ba bài hát "Cardigan", "The 1" và "Exile" hợp tác với Bon Iver đều lọt top 10 trên bảng xếp hạng âm nhạc chính thức của tám quốc gia, trong đó đĩa đơn đầu tiên "Cardigan" đã trở thành đĩa đơn quán quân thứ sáu của Swift trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ, giúp cô thiết lập kỷ lục nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử có hai sản phẩm dẫn đầu cả bảng xếp hạng album lẫn đĩa đơn của quốc gia này ngay trong tuần đầu phát hành.

Folklore nhận được sự tán dương rộng rãi từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó độ dày về mặt cảm xúc cùng phần lời đậm chất thơ và nhịp điệu thư thái là ba yếu tố được giới chuyên môn đánh giá cao nhất. Nhiều nhà phê bình nhận định tính mặc tưởng của đĩa hát rất phù hợp với thời điểm đại dịch và coi đây là sự tái sinh đầy táo bạo trong chất nghệ sĩ của Swift. Đối với một nghệ sĩ gắn bó với chủ trương phát hành nhiều album, các nhà bình luận nhận định thành công của Folklore với chiến dịch quảng bá ít ỏi đã tạo nên cuộc cách mạng lớn đối với Swift nói riêng và ngành công nghiệp âm nhạc nói chung. Folklore dẫn đầu danh sách những album xuất sắc nhất năm 2020 của nhiều tổ chức và ấn phẩm âm nhạc, đồng thời giành chiến thắng ở hạng mục Album của năm tại Giải Grammy lần thứ 63, đưa Swift trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên giành chiến thắng ở hạng mục này tới ba lần, theo sau giải thưởng cho hai album Fearless (2008) và 1989 (2014). Swift đã thảo luận về Folklore và trình diễn trực tiếp toàn bộ các bài hát của album trong bộ phim tài liệu Folklore: The Long Pond Studio Sessions – ra mắt vào ngày 25 tháng 11 năm 2020 trên nền tảng Disney+. Ngày 11 tháng 12 cùng năm, album chị em của Folklore – lấy tựa đề Evermore – được phát hành.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 4 năm 2020, Taylor Swift dự kiến thực hiện chuyến lưu diễn thứ sáu mang tên Lover Fest để quảng bá cho album phòng thu thứ bảy Lover (2019), nhưng kế hoạch đã phải hủy bỏ do những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.[5] Ngày 23 tháng 7 năm 2020, chín bức ảnh không có chú thích được đăng tải lên tài khoản Instagram của Swift, ghép lại thành hình ảnh nữ ca sĩ đang đứng một mình giữa một khu rừng. Sau đó, Swift đăng tải một bài đăng khác trên tất cả các trang mạng xã hội của mình để thông báo rằng album phòng thu thứ tám của cô sẽ được phát hành vào nửa đêm hôm đó. Cô viết: "Gần như mọi việc mà tôi đã lên kế hoạch trong mùa hè này đều không diễn ra, nhưng có một thứ tôi không hề dự định đã diễn ra. Và đó là album phòng thu thứ tám của tôi, Folklore". Swift cũng xác nhận hình ảnh bìa album và tiết lộ danh sách bài hát.[6] The Wall Street Journal cho rằng thông báo bất ngờ này "khiến người hâm mộ và ngành công nghiệp âm nhạc mất cảnh giác".[7] Trang Billboard nhận định thông tin này "làm lu mờ giới nhạc pop" và cứu rỗi người nghe khỏi cuộc sống bế tắc và tẻ nhạt trong thời gian phong tỏa.[8] Folklore được phát hành 11 tháng sau khi Lover ra mắt – đây là khoảng cách ngắn nhất giữa hai album phòng thu của Swift. Trong một bài đăng khác, Swift thông báo rằng video ca nhạc cho "Cardigan" sẽ được ra mắt cùng thời điểm với album.[9]

Trong buổi đếm ngược tới thời điểm ra mắt video ca nhạc của "Cardigan" trên YouTube, Swift tiết lộ rằng nội dung lời các bài hát từ Folklore ẩn chứa nhiều chi tiết trứng Phục sinh vốn là "đặc sản" của cô: "Một điều tôi chủ ý làm trong album này là đưa những chi tiết trứng Phục sinh vào phần lời bài hát, hơn là chỉ đưa vào trong video. Tôi đã tạo ra những hồi truyện về nhân vật và những chủ đề lặp lại để móc nối xem ai đang hát về ai... Ví dụ, có một bộ sưu tập ba bài hát mà tôi gọi là 'Tam giác tình yêu thuở thiếu thời'. Ba bài hát này khám phá một mối tình tay ba từ góc nhìn của cả ba người vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời họ".[10] Nữ ca sĩ mô tả album là "bâng khuâng và đầy thoát tục. Buồn bã, đẹp đẽ, bi thương. Giống như một cuốn album được lấp đầy bởi những hình ảnh, cùng tất cả những câu chuyện đằng sau những hình ảnh đó".[11] Cô cũng nhìn nhận "Cardigan" như một bài hát khai phá "mối tình đã đánh mất và lý do tại sao tình yêu thời trẻ thường in sâu mãi trong ký ức mỗi chúng ta,"[12] đồng thời tiết lộ rằng bản nhạc tự sáng tác "My Tears Ricochet" là bài hát đầu tiên cô viết cho dự án.[11] Uproxx thuật lại, "vào tối thứ Năm, những chữ 'T' và 'S' vẽ tay sẽ xuất hiện liên tục trên dòng thời gian. Những người hâm mộ và nhà phê bình ở mọi thể loại đều liên tục khai thác những thông tin nóng hổi, trích dẫn lại những đoạn lời bài hát như cách những thiếu niên thời Myspace vẫn viết ở mặt sau sách giáo khoa hoặc tạo nên những dòng tin nhắn AIM hoàn mỹ, và tranh luận về vị trí của Folklore trong pháo đài bất khả xâm phạm của Taylor Swift".[13]

Ý tưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Cho tới đầu năm 2020, Taylor Swift không hề có ý định thực hiện một album phòng thu mới.[14] Sau khi phải hủy bỏ chuyến lưu diễn Lover Fest vì đại dịch COVID-19,[5] nữ ca sĩ tự cách ly bản thân. Trong khoảng thời gian này cô xem nhiều bộ phim, như Rear Window (1954), L.A. Confidential (1997), Mê cung thần nông (2006), Jane Eyre (2011), Câu chuyện hôn nhân (2019)[14]Michael Jordan: Mùa giải cuối cùng (2020),[15] cũng như đọc nhiều sách hơn trước đây, đặc biệt là những cuốn sách "nói về quá khứ, về một thế giới không còn tồn tại nữa" như Rebecca (1938) của nữ nhà văn Daphne du Maurier.[16] Những câu chuyện giả tưởng đã truyền cảm hứng cho Swift vượt ra ngoài phong cách sáng tác tự truyện quen thuộc để thử nghiệm thêm nhiều phương pháp tường thuật khác nhau.[14] Trong thời điểm cách ly vì lệnh phong tỏa, cô thả trôi "vẩn vơ" trí tưởng tượng của mình trước khi tập hợp chúng lại thành một chuỗi những hình ảnh mà sau này sẽ trở thành Folklore.[17]

Album bắt đầu bằng những hình tượng. Một loạt những hình ảnh hiện ra trong đầu và khơi gợi trí tò mò của tôi. Các ngôi sao được vẽ xung quanh những vết sẹo. Một chiếc cardigan sau 20 năm vẫn đọng lại mùi hương của sự mất mát. Những chiếc thiết giáp hạm chìm sâu dưới đáy biển, sâu, sâu, thật sâu. Chiếc xích đu trên cây trong khu rừng thời thơ ấu của tôi. Những lời vội vã "hãy cùng nhau bỏ trốn nào" nhưng chẳng bao giờ thành hiện thực. Nắng tháng 8 đầm đìa, vơi dần như một chai rượu. Một quả cầu disco phản chiếu, treo lơ lửng trên sàn nhảy. Một chai whisky đầy vẫy gọi. Những đôi bàn tay đeo bao tay. Một sợi dây mà, chẳng thể biết là sẽ tốt hơn hay xấu đi, đã ràng buộc bạn với số phận của chính mình. Chẳng bao lâu sau, những hình ảnh trong đầu tôi đã trở thành những khuôn mặt, hoặc những cái tên, và rồi trở thành những nhân vật. Tôi thấy mình không chỉ viết những câu chuyện của riêng mình, mà còn viết về hoặc viết từ góc nhìn của những người mà tôi chưa từng gặp, những người tôi đã biết, hoặc những người tôi ước mình chưa từng biết.

— Swift nói về quá trình cô phát triển Folklore, Billboard[17]

Một số hình tượng mà nữ ca sĩ phát triển bao gồm: "Một người đàn ông lưu vong đang bước đi trên những con dốc đứng của một vùng đất xa lạ, tự hỏi làm thế nào mà mọi chuyện lại trở nên sai lầm một cách tồi tệ tới vậy. Một kẻ ngược đãi xuất hiện trong tang lễ của đối tượng bị ông làm cho ám ảnh. Một cậu bé mười bảy tuổi đứng trên hiên nhà, học cách nói lời xin lỗi. Những thiếu niên yêu nhau say đắm đang lang thang vòng quanh công viên High Line. Dean, ông của tôi, đặt chân đến Guadalcanal vào năm 1942. Một góa phụ xấu tính đang vui sướng trả thù cái thị trấn đã xua đuổi cô".[17] Swift "dồn tất cả những ý tưởng bất chợt, những giấc mơ, nỗi sợ và suy nghĩ" của mình vào các bài hát, và tìm đến những "người hùng âm nhạc" của cô để hợp tác.[18] Cô dự định phát hành Folklore vào đầu năm 2021, nhưng album "cuối cùng lại được hoàn thành" sớm hơn dự kiến và được phát hành luôn vào tháng 7 năm 2020, và nữ ca sĩ thậm chí còn chẳng hề đắn đo suy nghĩ về điều đó. Swift tiếp cận quá trình sáng tạo album không theo bất kỳ quy tắc nào. Cô giải thích rằng mình "từng áp đặt một vài tham số lên [bản thân] như, "Bài hát này nghe sẽ thế nào ở một sân vận động? Bài hát này nghe sẽ thế nào trên đài phát thanh?" Nếu bạn loại bỏ tất cả những tham số trên, bạn sẽ có gì? Và tôi đoán câu trả lời chính là Folklore".[16]

Sáng tác và thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]

Những sáng tác của Taylor Swift trong Folklore hướng theo chủ nghĩa thoát lychủ nghĩa lãng mạn.[16] Để album có được những âm sắc mà cô mong muốn, Swift mời hai nhà sản xuất: cộng sự lâu năm Jack Antonoff – trước đây từng làm việc với nữ ca sĩ trong các album 1989 (2014), Reputation (2017) và Lover – và người cộng sự mới Aaron Dessner – guitar chính của ban nhạc indie rock Mỹ The National.[19] Do những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, cả Swift, Antonoff và Dessner đều phải cách ly từ xa. Bộ ba đã từng bước tạo nên Folklore thông qua việc liên tục trao đổi qua lại những tập tin nhạc đệm và giọng hát.[20] Album sau đó được thực hiện theo quá trình "do it yourself",[21] được hòa âm và lập trình âm thanh bởi những nhân sự trải khắp Hoa Kỳ.[8]

Người đàn ông đang chơi guitar trên sân khấu
Người đàn ông đang chơi guitar
Folklore có sự tham gia sản xuất từ Aaron Dessner (trái) và Jack Antonoff (phải); Dessner sản xuất hầu hết những bản nhạc.

Swift trước đó đã gặp The National trong một tập của Saturday Night Live vào năm 2014; cô còn tham dự một buổi biểu diễn của nhóm vào năm 2019, tại đó nữ ca sĩ có trò chuyện với Dessner và người anh song sinh Bryce.[22] Cô hỏi Dessner về kỹ thuật sáng tác nhạc của anh, vì đó là "điều mà tôi luôn thích hỏi những người mà tôi hâm mộ", và Dessner trả lời rằng vì các thành viên của The National sống ở nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới nên anh sẽ thực hiện những bản thu nhạc không lời và gửi chúng cho Matt Berninger – ca sĩ hát chính – rồi Berninger sẽ viết tiếp phần lời nhạc; điều này giúp Swift khơi dậy ý tưởng sáng tạo âm nhạc trong thời gian cách ly.[16]

Sau khi tất cả các phòng thu bị đóng cửa vì đại dịch, với sự giúp đỡ của kỹ thuật viên âm thanh Laura Sisk, Swift đã xây dựng một phòng thu tại căn hộ ở Los Angeles của cô, được đặt tên là phòng thu Kitty Committee.[14] Antonoff, người hợp tác với Swift trong năm bài hát của album, làm việc từ Thành phố New York trong khi Sisk thu âm giọng hát của Swift từ Los Angeles. "My Tears Ricochet" là bài hát đầu tiên được sáng tác cho Folklore. Swift viết bản nhạc dựa trên mối quan hệ kết thúc đột ngột giữa nữ ca sĩ với Scott Borchetta, người sáng lập hãng đĩa cũ của cô.[14] Antonoff so sánh quá trình sáng tác "Mirrorball" và "August" tương tự như với "Out of the Woods" (2016) trước đây, vì khi đó anh cũng gửi những bản nhạc cho Swift, rồi cô phản hồi lại với bản nhạc kèm theo phần lời viết hoàn chỉnh.[23] Swift viết "Mirrorball" sau khi Lover Fest bị hủy bỏ, như một lời tri ân đến những người hâm mộ vốn tìm thấy niềm an ủi trong âm nhạc và những buổi biểu diễn của cô.[24] Cô sáng tác "August" về một nữ nhân tình không có thật, còn "This Is Me Trying" thì dựa trên nhiều câu chuyện khác nhau, chẳng hạn như việc đối mặt với nghiện ngập, cũng như sức khỏe tâm lý của chính cô vào những năm 2016–2017 khi cô cảm thấy mình "hoàn toàn vô giá trị".[14]

Vào cuối tháng 4, Swift liên lạc với Dessner để cùng nhau sáng tác một vài bài hát từ xa. Sau vài tháng, cả hai đã cộng tác với nhau trong 11 trên tổng số 16 bài hát của album.[25] Ban đầu Dessner "nghĩ rằng sẽ mất một khoảng thời gian để ý tưởng bài hát xuất hiện" và "không có tí kỳ vọng nào khi cả hai phải hoàn thành công việc từ xa", và rồi anh đã rất ngạc nhiên khi chỉ "vài giờ sau khi chia sẻ phần nhạc, điện thoại của tôi sáng lên với bản ghi giọng hát của Taylor về một bài hát được viết hoàn chỉnh – nguồn động lực đó chưa bao giờ ngưng".[26] Swift và Dessner "giữ liên lạc hàng ngày trong khoảng từ ba tới bốn tháng thông qua các cuộc gọi và tin nhắn".[22] Anh gửi những thư mục gồm các bản nhạc đệm cho cô qua thư điện tử, và nữ ca sĩ sẽ sáng tác những phần còn lại – bao gồm giai điệu và lời bài hát, và Dessner thậm chí "không hề biết bài hát đó sẽ nói về cái gì, được đặt tên là gì, [hay cô ấy] sẽ đặt phần điệp khúc ở đâu".[16] Bài hát đầu tiên Swift và Dessner viết là "Cardigan", dựa trên một trong những bản nháp của Dessner có tên "Maple",[26] theo sau là "Seven" và "Peace".[27] Sau khi nghe bản nhạc đệm của "Peace", trong Swift nhanh chóng xuất hiện cảm giác "thanh thản tức thì" đầy bình yên, nhưng cô nghĩ rằng sẽ "quá chuẩn đích" nếu nội dung bài hát lại cũng nói về việc tìm kiếm sự bình yên. Thay vào đó, cô bắt đầu viết về những "mâu thuẫn" phức tạp trong cảm xúc, đối nghịch lại với âm thanh êm dịu của bản nhạc,[14] và chỉ mất một lần thu âm để hoàn thành bài hát.[22]

Taylor đã mở ra cánh cửa giúp những nghệ sĩ không cảm thấy áp lực để tạo nên "bản hit". Để làm nên đĩa hát mà cô đã làm, lại vừa phải đi ngược với những gì được mặc định là nhạc pop ở đẳng cấp cao nhất trên sóng phát thanh – như thể cô ấy đã cho ra đời một bản thu phản pop.

— Dessner nói về định hướng âm nhạc của Swift trong Folklore, Billboard[28]

Sau vài tuần, khi Swift và Dessner viết xong "sáu hay bảy" bài hát, Swift bắt đầu giải thích cho anh về ý niệm của cô cho Folklore. Cô cũng kể cho Dessner về những bài hát cô đã thu âm trước đó với Antonoff và cho rằng những tác phẩm cô thực hiện với cả hai người cộng sự sẽ tạo nên một album hoàn chỉnh.[26] Swift và Dessner cũng sáng tác "The Last Great American Dynasty", "Mad Woman" và "Epiphany", trong đó "The Last Great American Dynasty" có phần âm thanh guitar điện được lấy cảm hứng từ album In Rainbows (2007) của ban nhạc Radiohead.[26] Phần lời bài hát được Swift viết trong lúc Dessner đang ra ngoài chạy bộ, khắc họa Rebekah Harkness, chủ cũ của căn hộ Holiday House mà Swift đã mua vào năm 2013.[14] Dessner sáng tác phần giai điệu piano cho "Mad Woman" tương tự như với những gì anh đã thể hiện trong "Cardigan" và "Seven".[27] Trong "Epiphany", Dessner giảm tốc độ và làm vọng ngược lại âm thanh của nhiều nhạc cụ khác nhau để tạo ra một bản "tổng hòa âm khổng lồ", đồng thời bổ sung thêm tiếng dương cầm nhằm gợi lên chất điện ảnh.[26] Swift viết "Epiphany" dựa trên những trải nghiệm của người ông cựu chiến binh của mình cũng như các nhân viên y tế trong đại dịch.[14]

Swift sáng tác hai bài hát "Exile" và "Betty" với người bạn trai lúc đó của cô là diễn viên người Anh Joe Alwyn. "Exile" được phát triển dưới dạng một bản song ca, và Dessner đã thu âm lại bản nháp mà Swift thể hiện cả phần giọng nam lẫn giọng nữ.[27] Trong quá trình Swift và Dessner chọn ra những giọng hát phù hợp với phần song ca nam, Swift tỏ ra vô cùng thích thú khi nghe giọng của Justin Vernon, thành viên ban nhạc Bon Iver – Vernon cũng là người sáng lập nhóm nhạc indie rock Mỹ Big Red Machine với Dessner.[22] Sau khi Dessner gửi bài hát cho Vernon, anh tỏ ra thích thú với bài hát này nên đã viết thêm lời nhạc cũng như thể hiện phần hát của mình.[26] "Betty" là bài hát duy nhất trong album được sản xuất bởi cả Dessner và Antonoff; phần nhạc đệm của bài hát chịu ảnh hưởng từ hai album The Freewheelin' Bob Dylan (1963) và John Wesley Harding (1967) của Bob Dylan.[26][27] Alwyn sử dụng nghệ danh William Bowery để đề tên ở phần sáng tác. Bowery ban đầu xuất hiện không rõ danh tính và được cho là một bút danh,[29][30] mà giới truyền thông, các nhà bình luận và người hâm mộ cho rằng đó là Alwyn, bạn trai của Swift.[31][32] Swift sau đó xác nhận rằng Bowery thực sự chính là bút danh của Alwyn,[33] và anh đã viết phần điệp khúc của "Betty", cũng như sáng tác cả phần giai điệu piano lẫn đoạn mở đầu của "Exile".[34] Hai bài hát cuối cùng được sáng tác cho album là "The 1" và "Hoax", lần lượt là bài hát đầu tiên và cuối cùng trong album. Swift viết cả hai bài hát chỉ trong vài giờ.[26] Nói về việc cộng tác với nữ ca sĩ, Dessner nhận xét, "Có sự nhân văn, cảm xúc mộc mạc và ấm áp trong những bài hát này mà tôi hy vọng bạn sẽ thích và cảm thấy thoải mái về chúng giống như tôi."[35]

Trong một cuộc phỏng vấn trên Rolling Stone vào tháng 11 năm 2020 với Paul McCartney, Swift nói rằng cô bắt đầu dùng những từ ngữ mà cô luôn muốn sử dụng trong phần lời nhạc của album mà không hề lo lắng rằng liệu chúng có phù hợp trên sóng phát thanh hay không. Cô đưa vào những từ ngữ "to tát hơn, hoa mỹ hơn, đẹp đẽ hơn" như "epiphany"[c], "elegies"[d] và "divorcée"[e] chỉ vì chúng "nghe hay". Swift cho biết cô có một danh sách ghi lại những từ như vậy. Swift cũng tiết lộ rằng trước đây cô đã từng sử dụng một từ – "kaleidoscope"[f] – trong bài hát "Welcome to New York" năm 2014.[16] Trong một cuộc phỏng vấn với Entertainment Weekly vào tháng 12 năm 2020, Swift nói rằng cô viết lời bài hát, giai điệu, và sản xuất Folklore theo cách mà cô muốn, chứ không hề áp đặt vào tác phẩm sự kỳ vọng của người khác.[14]

Tôi luôn nghĩ rằng, "Chà, bài hát đó sẽ chẳng bao giờ thành công trên đài phát thanh pop đâu", nhưng khi tôi thực hiện bản thu âm này, tôi lại nghĩ: "Bài nào cơ? Mọi thứ giờ đâu còn ý nghĩa gì nữa đâu. Nếu cả thế giới đang trong hỗn mang, thì tại sao tôi lại không được dùng cái từ ngữ chết tiệt mà tôi muốn đưa vào?"

— Swift nói về cách lựa chọn từ ngữ của cô trong Folklore, Rolling Stone[16]

Folklore được sáng tác và thu âm trong bí mật. Những người duy nhất biết đến việc album đang được thực hiện là Swift, bạn trai của cô, gia đình, đội ngũ quản lý, Antonoff và Dessner; Swift không tiết lộ thông tin hay phát trước album cho bạn bè nghe như cô vẫn thường hay làm trước đây.[14] Gần cuối quá trình thu âm của Folklore, Dessner đã liên hệ với những cộng sự thường xuyên của mình – bao gồm cả các thành viên của The National – để thực hiện phần nhạc đệm từ xa.[27] Anh trai của Dessner là Bryce đảm nhiệm vai trò phối khí dàn nhạc cho một số bài hát, trong khi tay trống của ban nhạc là Bryan Devendorf chơi trống trong "Seven".[19] Dessner giữ bí mật về dự án của Swift với chính gia đình và cộng sự của anh cho đến khi có thông báo chính thức từ nữ ca sĩ.[22][36] Trong khi quay video ca nhạc cho "Cardigan", Swift đã đeo tai nghe và nhép theo bài hát để tránh việc ca khúc bị rò rỉ.[37] Theo Dessner, hãng Republic Records không hề biết đến sự tồn tại của album cho đến thời điểm "vài giờ" trước khi đĩa nhạc được phát hành.[22]

Nhạc và lời

[sửa | sửa mã nguồn]

Một câu chuyện sẽ trở thành dân gian khi mọi người bắt đầu truyền miệng và rỉ tai nhau khắp nơi. Đôi khi còn hát về chúng. Lằn ranh giữa ảo và thực mờ dần và ranh giới giữa sự thật và giả tưởng gần như rất khó để phân biệt. Những suy đoán, theo thời gian, dần trở thành sự thật. Thần thoại, truyện ma và ngụ ngôn. Truyện cổ tích và dụ ngôn. Chuyện phiếm và truyền thuyết. Bí mật của một ai đó sẽ được viết lên bầu trời để tất cả cùng chiêm ngưỡng. Trong giai đoạn giãn cách xã hội, trí tưởng tượng của tôi cứ luôn vẩn vơ và album này chính là thành quả, một tập hợp những bài hát và câu chuyện được tuôn trào như dòng ý thức. Cầm bút lên là cách tôi chạy trốn vào trí tưởng tượng, lịch sử và ký ức. Tôi kể những câu chuyện này bằng khả năng tốt nhất của mình, với tất cả tình yêu, sự diệu kỳ và vô thường chúng xứng đáng có được. Bây giờ quyết định lưu truyền chúng hay không là nằm ở bạn.

— Taylor Swift nói về ý niệm của Folklore, Instagram[38]

Phiên bản tiêu chuẩn của Folklore dài khoảng một giờ ba phút với 16 bài hát, trong khi bản cao cấp Deluxe Edition bổ sung thêm bài hát thứ 17 mang tên "The Lakes". Ban nhạc indie-folk Mỹ Bon Iver góp giọng trong "Exile", bài hát thứ tư trong album. Folklore do Taylor Swift, Aaron DessnerJack Antonoff đảm nhiệm vai trò sáng tác và sản xuất, bên cạnh sự tham gia hỗ trợ viết lời từ Joe Alwyn (dưới bút danh William Bowery) trong "Exile" và "Betty", và Justin Vernon – giọng ca chính của Bon Iver – trong "Exile".[19][39] Đây là album đầu tiên trong sự nghiệp của Swift được dán nhãn Parental Advisory.[40]

Biên soạn

[sửa | sửa mã nguồn]

Hầu hết các nhà phê bình gọi Folklore là một đĩa nhạc alternative, indie folkelectro-folk, vốn khác biệt hoàn toàn với phong cách pop theo chủ nghĩa tối đa với những giai điệu đậm chất synth trong những album trước đó của Taylor Swift.[41][42] Album cũng mang những yếu tố của indie rock,[43] electronica,[44] dream pop[45]nhạc đồng quê.[46] Nhà báo Hannah Mylrea của NME mô tả thể loại của Folklore là indie folk và alternative rock,[46] trong khi Gary Ryan của cùng tạp chí lại nhận định album này đi theo dòng nhạc indietronicachamber pop.[47] Chris Willman của Variety và Jillian Mapes của Pitchfork cũng cho rằng đĩa nhạc này thuộc thể loại chamber pop.[48][49] Nhà phê bình Michael Sumsion của PopMatters mô tả album như một sự pha trộn của chamber pop và alt-folk.[50] Một vài nhà phê bình bác bỏ phân loại nhạc indie và gọi tác phẩm là pop.[41][51] Nhà báo âm nhạc Amanda Petrusich của The New Yorker gọi Folklore là một bản thu "phi thể loại" với thiên hướng về atmospheric pop hơn là folk.[52] Không đồng ý với những ý kiến trên, nhà phê bình Jon Caramanica của The New York Times nhận định Folklore là một album nhạc atmospheric rock và không hề mang yếu tố pop.[53] Spencer Kornhaber của The Atlantic nhìn nhận album "bơi qua những giai điệu dân gian và cổ điển phức tạp" và được gắn kết với nhau bằng âm thanh điện tử.[54]

Không nhắm đến những bản pop thân thiện với đài phát thanh,[55][56] Folklore hạn chế âm hưởng pop chủ đạo có trong nhiều tác phẩm trước đây của nữ ca sĩ.[48] Album bao gồm những bản ballad êm dịu, đậm chất điện ảnh, nhịp độ chậm,[26][48][57] với phần sản xuất đi theo hướng lo-fi, tối giản[58]giai điệu thanh nhã, đồng thời đưa vào đó dấu ấn hiện đại cho phương pháp sáng tác truyền thống.[57] Âm nhạc của đĩa hát được thực hiện bởi các nhạc cụ tân cổ điển như tiếng đàn dương cầm nhẹ nhàng,[44] lơ thơ[49] và âm vang;[57] tiếng guitar ủ rũ,[49] lầm bầm[44] và có độ gảy;[57] những âm thanh điện tử đứt quãng;[44] âm bộ gõ rộn ràng;[59] lập trình trốngmellotron êm dịu;[48] âm giao hưởng lướt gọn;[49] cùng với âm đàn dây thanh nhã[45] và tiếng kèn cor trầm tư.[60] Album không lảng tránh hoàn toàn chất liệu synth cũng như những tiết tấu vốn là đặc trưng trong những bản pop của Swift, mà thay vào đó chúng được cấu trúc một cách tinh tế hơn,[57] mang đến cho người nghe một không gian âm thanh electro-acoustic, từ đó làm tôn lên phần lời nhạc cũng như giọng hát của Swift.[61] Trang Rolling Stone ghi nhận tông nhạc của album có sự tương đồng với "Safe & Sound", đĩa đơn năm 2012 của Swift cho album The Hunger Games: Songs from District 12 and Beyond.[55] Trang The Ringer chỉ ra rằng Antonoff đưa vào trong bản thu âm phần âm thanh với âm synth làm gốc, trong khi Dessner đóng góp phần giai điệu piano; đồng thời móc nối Folklore tới hai bài hát "The Archer" và "It's Nice To Have a Friend" trong Lover, vì các album của Swift "thường có vài bài hát giao thoa với album trước hoặc kết nối với album tiếp theo".[62]

Chủ đề

[sửa | sửa mã nguồn]

Folklore là một album chủ đề[63] với nội dung được khai phá từ những góc nhìn khác nhau và tách biệt hoàn toàn với cuộc sống của Taylor Swift, bao gồm các câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba[60] xuất phát từ quan điểm của những nhân vật đan xen trong các bài hát.[26] Chủ đề của những sáng tác trong album bao gồm sự trầm uất, hoài niệm,[26] sự thoát ly,[64] chiêm nghiệm[65]sự đồng cảm.[54] Mặc dù Swift tiếp cận hướng đi mới trong âm nhạc, album vẫn giữ lại những phong cách sáng tác đặc trưng của cô, như việc truyền tải nhiều xúc cảm và nhiệt huyết tuổi thiếu niên.[62] So với nhiều album phòng thu trước, Folklore phản ánh sâu sắc sự tự nhận thức,[44] tính nội tâm[50] cũng như cách kể chuyện sống động[46] cho thấy mức độ cao hơn trong việc giả tưởng hóa và ít tham vấn từ bản thân hơn,[48] mà cực điểm là cách tiếp cận hướng ngoại.[54] Phần lời bài hát vừa mang tính cá nhân vừa mang tính hư cấu, và đôi khi là sự pha trộn của cả hai.[66] Phạm vi cảm xúc và trần thuật của Folklore được mở rộng thông qua việc khai triển từ những câu chuyện cá nhân của Swift cho đến các nhân vật tưởng tượng và nhân cách hóa.[65]

Những nhân vật hư cấu được mô tả trong Folklore bao gồm một linh hồn tìm thấy kẻ đã sát hại mình trong đám tang của bản thân, một cô bé bảy tuổi có một người bạn bị tổn thương tâm lý, người góa phụ già bị cả thị trấn hắt hủi và đang phải cai rượu, và mối tình tay ba giữa ba nhân vật Betty, James và một cô gái giấu tên[g] được mô tả trong ba bài hát "Cardigan", "Betty" và "August", trong đó mỗi bài hát được sáng tác từ góc nhìn của mỗi nhân vật ở những thời điểm khác nhau trong cuộc đời họ.[55] Ann Powers của NPR định nghĩa Folklore là một "khối tổng thể được xây dựng bằng ký ức, một cảm nhận chung về thế giới, được dựng nên từ thần thoại và những câu chuyện truyền tai", dựa trên ý tưởng rằng "mỗi chúng ta đều có những câu chuyện dân gian của riêng mình", và album là những câu chuyện dân gian của riêng Swift.[69] Nhiều bài hát trong album thể hiện chất điện ảnh trong phần lời nhạc,[70] với nhiều chủ thể và hiện tượng tự nhiên được đề cập tới như nhật thực, Sao Thổ, cực quang, bầu trời màu hồng tím, không khí mặn, cỏ dạihoa tử đằng.[71]

Rebekah Harkness là nàng thơ đằng sau bản nhạc thứ ba "The Last Great American Dynasty".

Bài hát mở đầu album – "The 1" – là một bản soft rock[72] được sáng tạo nhờ sự kết hợp linh hoạt[44] tiếng dương cầm, âm bộ gõ tinh giản và một vài âm thanh điện tử. Được sáng tác dưới góc nhìn từ một người bạn của Taylor Swift, "The 1" mô tả cách cả hai đón nhận cuộc sống và những mối tình trong quá khứ theo chiều hướng mới mẻ và tích cực, cùng với mong ước rằng họ có thể trở thành tri kỷ.[26][46] "Cardigan" là một bản folk ballad[73] với phần nhạc đệm mộc mạc và giàu cảm xúc[74] được cấu thành từ tiếng trống và âm piano nhẹ nhàng.[75] Trong bài hát, Swift hát dưới góc nhìn của một nhân vật hư cấu tên là Betty[59] về sự xa cách cùng những lạc quan lâu dài về mối quan hệ với một chàng trai tên James.[70] Cô đề cập đến Peter PanHigh Line trong bài hát, và sử dụng chiếc cardigan như một phép so sánh về sự bền bỉ của một mối quan hệ.[76] "The Last Great American Dynasty" là một bản alternative indie pop với các nhạc cụ cổ điển như guitar với kỹ thuật trượt nốt, vĩ cầm trầm, vĩ cầm, trống và âm thanh sản xuất đứt quãng.[46][77] Đây là một bài hát châm biếm về câu chuyện của Rebekah Harkness, nhà sáng lập của Harkness Ballet, khi cô sinh sống trong căn hộ Holiday House ở Rhode Island của Swift. Bài hát thuật lại chi tiết về việc Harkness kết hôn trong một gia đình thượng lưu, bị cả thị trấn ghét bỏ, và bị đổ lỗi cho cái chết của William Harkness – người chồng lúc bấy giờ và cũng là người thừa kế của Standard Oil – và sự sụp đổ của dòng họ Harkness, cũng như sự tương đồng giữa những chỉ trích gay gắt mà Harkness nhận được với những chỉ trích mà cô phải đối mặt xuyên suốt sự nghiệp.[78][79]

"Exile" là một bản indie folk[80] mang hơi hướng phúc âm[61] được pha trộn giữa giọng hát ngọt ngào của Swift với giọng nam trung trầm khàn của Justin Vernon từ ban nhạc Bon Iver,[81] nhằm thể hiện một buổi tâm sự khó nói và mang tính chất tranh luận giữa hai người yêu cũ.[80] Bài hát bắt đầu bằng tiếng dương cầm nặng nề và tiến đến cao trào với âm thanh từ dàn hợp xướng, dàn dây và đàn synthesizer.[45][82] Bản nhạc được so sánh với đĩa đơn "The Last Time" năm 2013 của Swift.[80] Bài hát thứ tư, "My Tears Ricochet" là bản nhạc arena-goth lạnh lẽo được hát theo góc nhìn từ linh hồn của một người tình đã khuất[83] phản ánh những căng thẳng sau khi kết thúc một mối quan hệ hôn nhân.[14] Bài hát sử dụng hình tượng đám tang – một phép ẩn dụ cho Scott Borchettaviệc ông thâu tóm quyền sở hữu những tác phẩm trước đây của Swift.[14][70] "My Tears Ricochet" là sự kết hợp của âm thanh hộp nhạc, phần bè hợp xướng, những khúc ab-lib vang dội ở đoạn chuyển tiếp cuối bài và phần cao trào với âm trống đầy rung chuyển.[46][84] "Mirrorball" là một bài hát mang âm hưởng folk, jangle-pop[85] và dream pop[43] với âm thanh từ đàn guitar thép có bàn đạp,[83][86] mà trong đó Swift vào vai một quả cầu Disco – một phép ẩn dụ cho việc Swift phải hy sinh sự tổn thương và nhạy cảm của mình để làm ra những bản nhạc giải trí cho người nghe.[70][87]

Trong bài hát thứ bảy đầy hoài niệm mang tên "Seven",[87] Swift sử dụng quãng âm cao[84] với giọng điệu ngây thơ[44] để hồi tưởng lại một người bạn bị lạm dụng từ thời thơ ấu của cô ở Pennsylvania,[88] người này cô không thể nhớ rõ nhưng vẫn có những kỷ niệm khó phai mờ, với phần chuyển soạn được cộng hưởng bởi âm đàn dây và piano tuôn trào.[44] "August" là một bản dream-pop ảm đạm[45] kể câu chuyện ngoại tình giữa hai người – một cô gái ngây thơ đang giữ chặt một chàng trai vốn "không phải của cô để mà phải lo bị đánh mất";[59] chàng trai được tiết lộ là James, ở phần sau của album.[70] Bài hát chứng kiến sự đau buồn và khao khát tình yêu của cô gái thông qua cách truyền tải nhẹ nhàng và êm ái cùng chất giọng biến chuyển liên hồi của Swift, và phần sản xuất hoành tráng với guitar acoustic, phần giọng hát được vọng lại, và những đoạn chuyển hợp âm.[45][70] Bản nhạc thứ chín, "Invisible String", là một bản orchestral pop thơ thẩn đề cập đến trách nhiệm và sự hối hận của một kẻ nghiện rượu khi tự thừa nhận rằng bản thân chưa bao giờ cảm thấy đủ.[70] Bản nhạc sử dụng giọng hát vang vọng, đầy "ma mị" của Swift và phần sản xuất nặng và mỗi lúc một dày hơn.[44][87]

Với phần biên khúc mộc mạc với âm đàn dây gảy ngón và âm kèn nhẹ nhàng,[45] "Illicit Affairs" bộc lộ sự phản bội của một kẻ không chung thủy, và những gì mà người này làm giữ mối quan hệ ngoại tình trong bí mật.[87] "Invisible String" là một bản folk[89] đem đến cái nhìn thoáng qua về tình yêu hiện tại của Swift với nam diễn viên người Anh Joe Alwyn, kể lại mối liên hệ "vô hình" giữa họ mà cả hai không hề hay biết cho đến khi gặp nhau qua việc sử dụng hình ảnh sợi tơ hồng định mệnh, vốn là một thần thoại dân gian châu Á.[70] Bài hát được xây dựng bằng đoạn riff acoustic cùng nhịp nhạc mạnh rộn ràng[70][89] cùng phong cách sáng tác riêng biệt sử dụng câu bị động để tạo ra lời kể chuyện,[56] đồng thời có tham khảo các bản hit trước đây của Swift như "Bad Blood" (2015), "Delicate" (2017) và "Daylight" (2019).[70] Với những nhận xét gay gắt và châm biếm về chủ nghĩa phân biệt giới tính,[90][86] "Mad Woman" giải quyết điều cấm kỵ liên quan đến sự tức giận của phụ nữ,[70] sự xuất hiện của bài hát giống như một khoảnh khắc bực bội nhỏ của Folklore.[48] Ẩn dụ cuộc tranh chấp của Swift với Borchetta và Scooter Braun,[14] bài hát mô tả một góa phụ tà đạo đang trả thù, với những đề cập đến các cuộc săn phù thủy gợi liên tưởng đến bài hát năm 2017 của Swift "I Did Something Bad".[79]

"Epiphany" là một bản Thánh ca theo thể loại ambient[43][86] mô tả sự tàn phá của đại dịch COVID-19 cũng như bày tỏ sự trân trọng đến công việc của các nhân viên y tế. Swift ví các bác sĩ và y tá như những người lính hải quân,[59] đồng thời so sánh họ với người ông của cô, vốn là cựu chiến binh quân sự chiến đấu trong Trận chiến Guadalcanal (1942) trong Chiến tranh thế giới thứ hai; cô đồng cảm với nỗi đau của họ khi nhìn thấy cái chết và phải cam chịu với điều đó để tiếp tục phục vụ những người bị ảnh hưởng.[70] Giọng hát của cô thể hiện sự tôn kính và như thiên thần trong "Epiphany", với tiếng dương cầm ảm đạm,[89] bộ đồng[84] và dàn nhạc buồn thảm.[79] Bài hát thứ 14, "Betty", là một bản đồng quê và folk rock được đan xen với tiếng harmonica.[46][86] Bài hát thuật lại câu chuyện về mối quan hệ trong "Cardigan", nhưng dưới góc nhìn của người bạn trai lừa dối James[59] sau khi đã trải qua mối tình mùa hè với nhân vật nữ trong "August".[86] James xin lỗi về những sai lầm trong quá khứ của mình đồng thời cũng tìm nhiều lý do để bào chữa cho hành động đó.[79] Những nhân vật trong chuỗi câu chuyện – Betty, James, và Inez – được đặt theo tên ba con gái của Ryan ReynoldsBlake Lively.[91] Tiếp đó, bản nhạc mang hơi thở R&B "Peace" làm nổi bật chất giọng giàu cảm xúc và đậm chất jazz của Swift qua việc sử dụng chuỗi giai điệu giọng hát phức tạp[26][83] cùng với âm synth tối giản và tiếng piano nhỏ giọt.[61] Về lời nhạc, "Peace" như một bài thơ ode mà Swift dành để gửi tới người mình yêu,[83] qua đó mổ xẻ những ảnh hưởng của việc trở thành ngôi sao nổi tiếng tới mối quan hệ cá nhân của cô, đồng thời cảnh báo người yêu mình về những thách thức trong tương lai.[87][92]

Trong bài hát thứ 17 của album – "The Lakes" – Swift hát về kỳ nghỉ của cô với người yêu ở Windermere, hồ nước lớn nhất ở Anh.

Kết thúc phiên bản tiêu chuẩn của Folklore bằng một nốt trầm buồn bã[93] là "Hoax", một bản piano ballad chậm rãi với ca từ mộc mạc đầy cảm xúc kể về một mối quan hệ rạn nứt nhưng bền vững.[26][79] Bài hát đi kèm trong phiên bản Deluxe Edition của Folklore, "The Lakes", là một bản midtempo[93] mà Swift suy nghĩ về việc bán nghỉ hưu tại Windermere, hồ nước lớn nhất ở Anh, tọa lạc tại Lake District;[10] địa điểm này cũng được nhắc tới trong "Invisible String".[70] Với tưởng tượng về một bông hồng đỏ mọc ra từ đài nguyên "mà không có ai xung quanh để tweet về nó", Swift đã tạo ra một địa đàng nơi không có mạng xã hội.[48] Lời bài hát cũng đề cập tới William Wordsworth, một nhà thơ từ thế kỷ 19 nổi tiếng với các tác phẩm lãng mạn.[93]

Chỉ đạo nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay từ đầu, Taylor đã có ý tưởng rõ ràng về những gì cô ấy muốn cho phần hình ảnh của album. Chúng tôi xem xét những tác phẩm siêu thực, hình tượng vốn đối chọi với hiện thực con người trong tự nhiên. Chúng tôi còn xem xét các kỹ thuật ảnh xưa như autochrome, ambrotype và truyện ảnh từ những năm 1940.

— Beth Garrabrant, i-D[94]

Phần hình ảnh album, thiết kế bìa đĩa và video lời bài hát của Folklore được sáng tạo dưới hình thức "do it yourself".[14] Do những lo ngại về đại dịch COVID-19, Taylor Swift đã hợp tác với nhiếp ảnh gia Beth Garrabrant để thực hiện phần ảnh bìa mà không có sự tham gia của đội ngũ kỹ thuật. Buổi chụp hình khác biệt hoàn toàn so với những buổi chụp trước đây của Swift – vốn thường sẽ có "100 người trên phim trường". Swift tự chuẩn bị mọi thứ cho bản thân trong buổi chụp, bao gồm cả làm tóc, trang điểm và quần áo, và đưa cho Garrabrant một bảng moodboard trước khi chụp. Theo lời của Swift, buổi chụp hình chỉ có cô và Garrabrant lang thang giữa cánh đồng.[14] Các bức ảnh chụp được chuyển về bộ lọc màu theo thang xám và đen trắng.[56][95]

Bìa album

[sửa | sửa mã nguồn]

Bìa album bản tiêu chuẩn phác họa ý tưởng của Taylor Swift về hình tượng một cô gái mộng du trong chiếc váy ngủ vào thế kỷ 19.[14] Trong ảnh bìa, Swift đứng một mình trong khu rừng mờ ảo dưới màn sương sớm,[96][97] mặc một chiếc áo khoác kẻ sọc dài hai hàng khuy bên ngoài chiếc váy xòe trắng,[98] nhìn lên những tán cây cao trong rừng.[99] Ở bìa sau, cô đứng quay lưng lại với máy ảnh, mặc một chiếc áo khoác denim có đường viền bằng vải nỉ rũ xuống ôm lấy cánh tay, và một chiếc váy ren trắng, với hai búi tóc được tết lỏng lẻo và thấp về phía gáy – hình ảnh này có nhiều điểm tương đồng với búp bê Kirsten Larson của American Girl.[96][98] Tiêu đề album được viết bằng phông chữ in nghiêng gợi liên tưởng đến "nét bút nguệch ngoạc trong Biên niên sử Narnia".[100][101]

Biểu trưng của Folklore

Trong một cuộc phỏng vấn ngày 14 tháng 12 năm 2020, Jimmy Kimmel hỏi Swift về sự hiện diện của từ "woodvale" trên ảnh bìa phiên bản "Hide-and-Seek" của Folklore, làm dấy lên nghi ngờ về tiêu đề một album mới sau Evermore; Swift phủ nhận nghi vấn và tuyên bố rằng cô không hề tiết lộ tiêu đề của Folklore cho bất kỳ ai cho đến trước khi phát hành, thay vào đó cô sử dụng "woodvale" như một mật danh và đặt vào bức ảnh vì sở thích, nhưng vô tình từ này lại được in trong bản in cuối cùng.[102]

Thẩm mỹ và thời trang

[sửa | sửa mã nguồn]

Phản ánh chủ đề lời bài hát về chủ nghĩa thoát ly,[103] Folklore cho thấy Taylor Swift đang theo đuổi trường phái thẩm mỹ mộc mạc,[56] thiên về tự nhiên[95]cottagecore cho dự án,[98][104] khác xa với phong cách "lễ hội màu sắc" của album Lover (2019) trước đó.[105] Video ca nhạc cho "Cardigan" mở rộng hơn ý niệm về phong cách cottagecore, bắt đầu với cảnh Swift mặc chiếc váy ngủ ngồi bên cây đàn piano cổ điển trong một ngôi nhà nhỏ ấm cúng trong rừng. Video có sự xuất hiện của hình ảnh khu rừng phủ rêu và cây đàn piano tạo ra thác nước. Swift cũng bày bán trên trang web của cô chiếc "áo cardigan Folklore" mà cô mặc trong video – một chiếc áo len đan đường vân màu kem, với các ngôi sao thêu bạc trên khuỷu tay áo, đường ống và nút khuy màu xanh nước biển.[98]

W Magazine coi chiếc áo cardigan là "pièce de résistance"[h] trong tính thẩm mỹ của Folklore, và nhận xét tám bức ảnh bìa của album đã cho thấy Swift "vui đùa trong rừng như một nữ hoàng cottagecore".[106] Irish Independent thì ví Swift như một "nghệ sĩ dân ca đang chơi đùa với chim chóc và cỏ cây" khi cô diện chiếc áo len Aran cồng kềnh theo "phong cách Clancy Brothers".[107] RTÉ cảm ơn Swift vì đã đưa cardigan "trở lại bản đồ" thời trang.[108] Nhận thấy rằng các kỷ nguyên album của Swift luôn được xác định bởi màu sắc, thời trang và chất văn hóa riêng, trong Teen Vogue mô tả Folklore với phần trang phục đơn giản, tông màu trung tính, và chiếc áo cardigan là vật giúp khán giả hiểu được cảm xúc của việc lựa chọn trang phục.[109] Trào lưu cottagecore bắt đầu trỗi dậy trở lại trên Internet sau khi Swift sử dụng phong cách thẩm mỹ này,[110] trong đó doanh số bán áo len đan tay Aran có bước nhảy vọt ở Ireland và Hoa Kỳ.[111]

So sánh tác phẩm với những đĩa hát trước đây của nữ ca sĩ, The Guardian mô tả 1989 (2014) là bóng bẩy và uyển chuyển, Reputation (2017) là huyền bí và nguy hiểm, Lover là vui tươi, phủ đầy màu phấn, trong khi Folklore là câu chuyện đơn sắc của một nhạc sĩ trở về với cội nguồn bình dị.[65] Refinery29 gọi phần thẩm mỹ là sự trở lại của Swift với "bản ngã chân thật nhất" của cô,[98] đồng thời so sánh diện mạo mới của nữ ca sĩ với một "Bông hồng Anh cổ điển".[112] Vogue nhận thấy việc Swift lựa chọn bảng màu mục vụ gợi nhớ tới video ca nhạc cho đĩa đơn "Safe & Sound" ra mắt năm 2012 của cô.[86] Beats Per Minute cho rằng phong cách thẩm mỹ của album làm dậy lại hình ảnh từ những tác phẩm của các họa sĩ Grant Wood, Andrew WyethLionel Walden, đặc biệt là American Gothic của Wood.[99] Vulture định nghĩa Folklore là "một bộ phim lịch sử kinh dị độc lập đen trắng kỳ lạ" thể hiện lòng tri ân đến nhiều bộ phim kinh điển, đặc biệt là những phim kinh dị của hãng A24, với những bài hát đậm chất điện ảnh.[105] Tính thẩm mỹ của album cũng được so sánh với phần nhìn của một số bộ phim như Ivan's Childhood (1962), Picnic at Hanging Rock (1975), The Blair Witch Project (1999), Mê cung Thần Nông (2006), Sách ma (2014), The Witch (2015), Những kẻ khát tình (2017), Woodshock (2017), The Lighthouse (2019), Midsommar (2019) và Những người phụ nữ bé nhỏ (2019).[86][98][105][113]

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Folklore đánh dấu lần đầu tiên Taylor Swift đi ngược với chiến lược quảng bá album kéo dài của cô trước đây, thay vào đó nữ ca sĩ chọn phát hành album bất ngờ theo trực giác của bản thân. Cô chia sẻ "nếu bạn làm một điều gì đó bạn thích, bạn chỉ muốn công khai điều đó ngay". Swift lần đầu công bố album trên các tài khoản mạng xã hội của cô chỉ 16 giờ trước khi phát hành.[114] Bản thu âm được phát hành trên tất cả các nền tảng nhạc số vào nửa đêm ngày 24 tháng 7 năm 2020; Tám phiên bản đĩa CD bản Deluxe Edition giới hạn và đĩa than với tám ảnh bìa album khác nhau chỉ được bày bán trong tuần đầu tiên trên trang web của Swift.[1] Phiên bản đĩa CD tiêu chuẩn (được đặt tên là "In the Trees", viết cách điệu bằng chữ in thường) của Folklore được phát hành đến các nhà bán lẻ vào ngày 7 tháng 8 năm 2020,[115][116] trong khi bản CD "Meet Me Behind the Mall" Edition được phân phối độc quyền tại Target.[2] Phiên bản Deluxe Edition của Folklore, với bản nhạc kèm theo "The Lakes", được phát hành đến các nền tảng nhạc số và phát trực tuyến vào ngày 18 tháng 8 năm 2020.[39]

Bắt đầu từ ngày 20 tháng 8 năm 2020, một số lượng hạn chế đĩa CD Folklore có chữ ký đã được chuyển đến các cửa hàng băng đĩa độc lập khác nhau trên khắp Hoa Kỳ và Scotland để hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ trong thời kỳ đại dịch.[117][118] Swift còn gửi những chiếc áo cardigan Folklore của cô đến những người bạn nổi tiếng và nhà hảo tâm.[119] Cô phát hành bốn tuyển tập sáu bài hát trích từ Folklore trên các nền tảng phát nhạc trực tuyến, giải thích rằng "những bài hát trong Folklore phù hợp với các nhóm và các 'chương truyện' khác nhau, dựa trên cách chúng ăn khớp với nhau theo chủ đề". Folklore: The Escapism Chapter, Folklore: The Sleepless Nights Chapter, Folklore: The Saltbox House ChapterFolklore: The Yeah I Showed Up at Your Party Chapter (tất cả đều được cách điệu in thường) lần lượt được phát hành vào các ngày 21 tháng 8, 24 tháng 8, 27 tháng 8 và 21 tháng 9 năm 2020.[120] Album phòng thu thứ chín của Swift, Evermore, là phần tiếp theo của Folklore và được phát hành sau Folklore chỉ 5 tháng. Nữ ca sĩ gọi chúng là những "album chị em".[121]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

"Cardigan" được lựa chọn phát hành làm đĩa đơn đầu tiên của Folklore[122] kèm với một video âm nhạc do cô tự đạo diễn và Jil Hardin đóng vai trò nhà sản xuất – được đăng tải trên kênh YouTube của Taylor Swift. Cả đĩa đơn lẫn vidoe âm nhạc đều được phát hành vào ngày 24 tháng 7 năm 2020, cùng lúc với album.[9] Bài hát được gửi đến các đài phát thanh popadult pop của Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 7.[123][124] "Cardigan" ra mắt ở vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành bài hát quán quân thứ sáu trong sự nghiệp của Swift cũng như là đĩa đơn thứ hai của nữ ca sĩ đạt vị trí quán quân trong tuần đầu ra mắt.[125] Trang Billboard ghi nhận kế hoạch phát thanh độc đáo được sử dụng cho Folklore, trong đó một số bài hát được quảng bá đồng thời trên nhiều định dạng phát thanh. Trong khi "Cardigan" tác động đến đài phát thanh pop và adult contemporary,[126] "Exile" được gửi đến đài phát thanh adult alternative vào ngày 3 tháng 8 năm 2020, vốn đạt vị trí thứ sáu trước đó trên Hot 100,[125][127] trong khi "Betty" được quảng bá đến các đài phát thanh nhạc đồng quê vào ngày 17 tháng 8 năm 2020,[128] sau khi đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Hot Country Songs.[129] "The 1" tiếp cận đến đài phát thanh hit đương đại ở Đức vào ngày 9 tháng 10 năm 2020;[130] "The 1" đạt vị trí thứ tư trên Hot 100.[125] Vào ngày 24 tháng 7 năm 2021, nhân kỷ niệm năm đầu phát hành Folklore, bản thu âm gốc của "The Lakes" được phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng bá.[131]

Phim và album trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim tài liệu hòa nhạc mang tựa đề Folklore: The Long Pond Studio Sessions do Taylor Swift tự tay đạo diễn và sản xuất được phát hành vào ngày 25 tháng 11 năm 2020 trên nền tảng phim trực tuyến Disney+. Xuyên suốt tác phẩm, Swift thể hiện trực tiếp tất cả 17 bài hát của Folklore trong một không gian thân mật tại Long Pong Studio, New York, đồng thời chia sẻ câu chuyện đằng sau mỗi bản nhạc với Antonoff và Dessner.[20] Bên cạnh việc ra mắt phim, album trực tiếp thứ ba của Swift, Folklore: The Long Pond Studio Sessions (From the Disney+ Special) – tổng hợp các bản nhạc acoustic thu trực tiếp từ bộ phim – cũng được phát hành cùng ngày trên các nền tảng âm nhạc trực tuyến.[132][133]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?8.5/10[134]
Metacritic88/100[135]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[136]
Chicago Tribune[137]
The Daily Telegraph[57]
Entertainment WeeklyA[88]
The Guardian[44]
The Independent[138]
NME[46]
Pitchfork8.0/10[49]
Rolling Stone[55]
The Sydney Morning Herald [45]

Folklore nhận được sự hoan nghênh rộng rãi từ các nhà phê bình âm nhạc, đặc biệt cho sức nặng cảm xúc và phong cách sáng tác đậm tính nội tâm.[139] Nhiều cây bút coi đây là tác phẩm êm dịu và tinh tế nhất từ trước đến nay của Taylor Swift.[140] Trên trang Metacritic, nơi ấn định điểm chuẩn hóa 100 dựa trên xếp hạng từ các ấn phẩm âm nhạc, album nhận được điểm trung bình là 88 căn cứ vào 27 bài đánh giá, thể hiện mức độ "hoan nghênh tuyệt đối".[135] Folklore được nhiều người đánh giá là album xuất sắc nhất trong sự nghiệp của Swift.[141]

Rob Sheffield của Rolling Stone tán dương khả năng sáng tác của Swift khi thể hiện được "sự dí dỏm, lòng trắc ẩn và sự đồng cảm sâu sắc nhất" của nữ ca sĩ, khiến Folklore trở thành album thân mật nhất của cô.[55] Ngoài việc chú ý đến cách kể chuyện sinh động, giàu tưởng tượng và hình ảnh, Jillian Mapes của Pitchfork coi album là một bước trưởng thành trong nghệ thuật của Swift, trong khi vẫn giữ vững được giá trị cốt lõi của một nhạc sĩ nổi tiếng.[49] Mark Savage của BBC phân loại Folklore là một đĩa nhạc indie chứa đầy hoài niệm cùnng những lỗi lầm cộng hưởng theo thời gian.[142] Katie Moulton từ Consequence of Sound ghi nhận sự trưởng thành của Swift trong album, đặc biệt là việc sử dụng góc nhìn của người thứ ba vốn không phổ biến trong các tác phẩm trước đây của nữ ca sĩ.[85] Những cây bút khác cũng có ấn tượng với phần lời nhạc của album bao gồm Neil McCormick của The Daily Telegraph,[57] Sarah Carson của i[59] và Giselle Au-Nhien Nguyen của The Sydney Morning Herald;[45] cả ba đều chấm mức điểm đánh giá tối đa cho tác phẩm. Nhận định Folklore là một nỗ lực táo bạo, Hannah Mylrea của NME ca ngợi khả năng khơi gợi hình ảnh sống động trong những sáng tác của Swift, nhưng đồng thời cũng chỉ ra một vài điểm lộn xộn trong tổng thể 16 bài hát;[46] cô ngoài ra cũng vinh danh Folklore trong số những bản thu âm mùa thu hay nhất mọi thời đại.[143]

Một số nhà phê bình hoan nghênh hướng đi âm nhạc mới của Swift. Theo lời của Chris Willman từ Variety, album như một lời nhắc nhở rằng Swift nằm trong số ít những ngôi sao nhạc pop sẵn sàng thử nghiệm nhiều phong cách âm nhạc khác nhau.[48] Laura Snapes của The Guardian khen ngợi album là tác phẩm vừa có sự gắn kết nhất vừa mang tính thể nghiệm nhất trong số những đĩa hát của Swift.[44] Maura Johnston của Entertainment Weekly coi album là một bước đi táo bạo đối với một ngôi sao nhạc pop như Swift trong việc thách thức khán giả của mình.[88] Roisin O'Connor của The Independent ca ngợi "chất thơ và âm dương cầm tinh tế" của album, vốn không giống với bất kỳ album nào trước đây của nữ ca sĩ.[138] Stephen Thomas Erlewine của AllMusic nhìn nhận tích cực về album nhưng cảm thấy phong cách âm nhạc không phải là một "mánh lới mới" của Swift.[136] Cùng chia sẻ quan điểm trên, Annie Zaleski của The A.V. Club cho rằng album không hoàn toàn mang tính thử nghiệm, nhưng vẫn thể hiện một khía cạnh mới trong chất nghệ sĩ của Swift.[89] Trong chuyên mục "Định hướng người tiêu dùng" xuất bản trên Substack của mình, Robert Christgau ấn tượng và xúc động nhất với những bản nhạc mang chủ đề tuổi trẻ như "Seven" và "Betty" hơn là những bài hát trưởng thành. Ông cũng chỉ ra "The Last Great American Dynasty" là bài hát duy nhất mà ông không chịu nổi vì bản nhạc khiến ông nhớ tới "Taylor Swift, kẻ tài phiệt của giới giải trí".[144] Trong một bài đánh giá trái chiều, nhà phê bình Jon Caramanica của The New York Times khen ngợi khả năng sáng tác của Swift nhưng cảm thấy album bị đè nặng bởi chất indie rock "sầu não" và "sáng tác quá tay".[53]

Đánh giá cuối năm

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều ấn phẩm đã liệt kê Folklore trong danh sách những album hay nhất năm 2020, trong đó, album được xếp hạng nhất trong các danh sách cuối năm của[8] Los Angeles Times,[145] Rolling Stone,[146] Insider,[147] NJ.com,[148] South China Morning Post,[149] Uproxx,[150] USA Today,[151] Us Weekly,[152] Variety,[153] and Walla Walla Union-Bulletin.[154] Folklore xếp thứ ba trong số những album được nhắc đến nhiều nhất trong danh sách cuối năm 2020 của Metacritic.[155]. Các bài hát "The 1",[156] "Cardigan",[157] "The Last Great American Dynasty",[158] "Exile",[159] "Mirrorball",[72] "Seven",[160] "August",[161] "This Is Me Trying",[162] "Invisible String"[163] và "Betty"[164] cũng được xướng tên trong số những bài hát hay nhất năm 2020.

Chọn lọc một số thứ hạng cuối năm của Folklore
Nhà phê bình/Ấn phẩm Danh sách Thứ hạng Nguồn
BBC Album hay nhất năm 2020
3
Billboard Top 50 album hay nhất năm 2020
1
Entertainment Weekly 15 album hay nhất năm 2020
5
The Guardian 50 album hay nhất năm 2020
9
The Independent 40 album hay nhất năm 2020
10
Los Angeles Times 10 album hay nhất năm 2020
1
NME 50 album hay nhất năm 2020
2
Pitchfork 50 album hay nhất năm 2020
29
Rolling Stone 50 album hay nhất năm 2020
1
Time 10 album hay nhất năm 2020
1

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Sở hữu thành tích mở màn cao nhất trên Spotify trong năm 2020, Folklore đạt được hơn 80,6 triệu lượt stream trực tuyến toàn cầu trên nền tảng này trong ngày đầu tiên phát hành và được ghi danh Kỷ lục Guinness Thế giới với album có lượt phát trực tuyến ngày đầu lớn nhất của một nghệ sĩ nữ, phá vỡ kỷ lục trước đó của Ariana Grande với Thank U, Next.[169] Đĩa đơn "Cardigan" đứng đầu bảng xếp hạng Spotify toàn cầu với 7,74 triệu lượt nghe – thành tích ngày đầu cao nhất cho một bài hát của nghệ sĩ nữ trong năm 2020.[170] Folklore cũng phá kỷ lục trên Apple Music cho album nhạc pop được phát trực tuyến nhiều nhất trong 24 giờ với 35,5 triệu lượt nghe,[171] và kỷ lục ở thể loại indie/alternative trên Amazon Music.[172]

Republic Records cho biết Folklore đã bán được khoảng 1,3 triệu bản trên toàn thế giới vào ngày đầu tiên ra mắt và hơn 2 triệu bản trong tuần đầu phát hành.[173][174] Rolling Stone chỉ ra rằng lượt phát trực tuyến của album "trải đều hơn" giữa các bài hát, không giống như những album khác trong năm.[175] Swift là nghệ sĩ nữ được phát trực tiếp nhiều thứ hai của năm 2020 trên nền tảng Spotify, sau Billie Eilish,[176] và là nghệ sĩ được phát trực tuyến nhiều nhất năm trên Amazon Music ở tất cả các thể loại nhạc.[177] Tới cuối năm 2020, Folklore bán được 2 triệu bản thuần trên toàn cầu.[178] Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế ghi nhận đây là album bán chạy nhất năm của một nữ nghệ sĩ, và Swift là ca sĩ có doanh số bán chạy nhất năm 2020.[179]

Lượng stream trực tuyến theo yêu cầu trong ngày đầu tiên cho Folklore đạt 72 triệu lượt ở Mỹ, vượt qua kỷ lục của Thank U, Next (55,9 triệu lượt).[175] Album bán được hơn 500.000 đơn vị – bao gồm 400.000 bản thuần – chỉ trong ba ngày đầu phát hành, trở thành album đầu tiên kể từ Lover (2019) của Taylor Swift cán mốc nửa triệu đơn vị trong một tuần.[180] Folklore ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 và đứng đầu trong tám tuần liên tục, trở thành album giữ vị trí quán quân lâu nhất năm 2020. Album ra mắt với 846.000 đơn vị, bao gồm 615.000 bản thuần và 289,85 triệu lượt phát trực tuyến theo yêu cầu, trở thành album sở hữu doanh số tuần và lượng stream trực tuyến lớn nhất năm 2020 (vượt qua Legends Never Die của Juice Wrld) và lớn nhất kể từ Lover. Lượng tiêu thụ chỉ trong tuần đầu tiên của Folklore đủ để giúp tác phẩm trở thành album bán chạy nhất năm, vượt qua Map of the Soul: 7 của BTS. Swift trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có bảy album ra mắt ở vị trí số một trên Billboard 200, đồng thời cùng hạng ba với Janet Jackson cho nghệ sĩ có số album quán quân nhiều thứ ba.[181] Vượt qua Eminem, cô là nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử Nielsen SoundScan có bảy đĩa hát bán được hơn 500.000 bản trong một tuần,[181] và là nữ nghệ sĩ đầu tiên kể từ Barbra Streisand có sáu album đạt nhiều tuần ở vị trí số một.[182] Album cũng đánh dấu lần đầu tiên Swift xuất hiện trên bảng xếp hạng Alternative Albums, và đây cũng là màn ra mắt lớn nhất trong lịch sử của bảng xếp hạng này.[183]

Ban nhạc indie-folk Mỹ Bon Iver hợp tác trong bản nhạc thứ tư "Exile", được giới chuyên môn lựa chọn là điểm nhấn của album. Đây là một trong những bài hát xếp hạng cao nhất của Folklore.

Folklore trở thành album đạt một triệu bản nhanh nhất năm 2020.[184] Đĩa nhạc còn trở thành album quán quân lâu nhất của một nghệ sĩ nữ trên Billboard 200 kể từ Reputation của chính cô,[185] và là đĩa hát đầu tiên đứng đầu Billboard 200 trong bốn tuần đầu kể từ 25 (2015) của Adele;[186] Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên của thế kỷ 21 có sáu album, mỗi album trải qua bốn tuần đứng đầu bảng xếp hạng.[187] Cô cũng trở thành nghệ sĩ hát đơn/nghệ sĩ nữ đầu tiên (sau The Beatles) có năm album từng đứng đầu bảng xếp hạng trong sáu tuần trở lên.[188][189] Billboard cho rằng sự thống trị lâu dài của album ở vị trí quán quân là nhờ vào thời điểm phát hành, khi những bài hát phù hợp với đại dịch và khả năng kết nối người nghe của Swift.[190] Album đưa Swift vượt qua Whitney Houston để trở thành nữ ca sĩ đứng đầu Billboard 200 nhiều tuần nhất từ trước đến nay (47 tuần).[191] Đến tháng 10 năm 2020, Folklore cán mốc một triệu bản thuần được tiêu thụ tại Hoa Kỳ, trở thành album duy nhất của năm 2020 đạt tới cột mốc này và là dự án thứ chín của Swift làm được điều này.[192] Khi Evermore đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200, Folklore vươn lên vị trí thứ ba với 133.000 đơn vị, giúp Swift trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên từng lọt vào bảng xếp hạng với hai album cùng lúc trong top 3.[193]

Tất cả 16 bài hát trong album đều đạt thứ hạng trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong tuần đầu ra mắt, với ba bản hit top 10, năm lọt vào top 20 và mười ở top 40. Đĩa đơn đầu tiên "Cardigan" ra mắt ở vị trí quán quân, trở thành đĩa đơn quán quân thứ sáu của Swift, giúp cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên có sản phẩm đứng đầu cả hai bảng xếp hạng Billboard 200 và Billboard Hot 100 trong tuần đầu tiên ra mắt. Cô cũng là nghệ sĩ đầu tiên ra mắt đồng thời hai bài hát trong top 4 và ba bài hát trong top 6, với "The 1" ở vị trí thứ 4 và "Exile" ở vị trí thứ 6, giúp gia tăng tổng số lượng bài hát lọt top 10 của Swift lên con số 28, trong đó có 18 bài hát được lọt top 10 ngay tuần đầu ra mắt. Folklore là album thứ hai liên tiếp của cô với tất cả các bài hát đồng thời lọt vào bảng xếp hạng Hot 100, sau Lover.[194] Swift trở thành nghệ sĩ nữ có số lần ra mắt đồng thời trên bảng xếp hạng Hot 100 nhiều nhất từ trước đến nay (16 lần), phá vỡ kỷ lục trước đó do chính cô thiết lập với Lover, đồng thời vượt qua Nicki Minaj trở thành nghệ sĩ nữ có nhiều bài hát xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 nhất, với tổng số 113.[195] 11 bài hát trong album lọt vào bảng xếp hạng Hot Rock & Alternative Songs, trong đó có 8 bài hát lọt top 10.[183]

Trên bảng xếp hạng Billboard cuối năm 2020, Swift là nữ nghệ sĩ dẫn đầu của năm, đây là lần thứ năm trong sự nghiệp cô đạt được thành tích này. Swift còn là nữ nghệ sĩ duy nhất lọt vào top 10 của danh sách Billboard 200 cuối năm.[196] Swift hoặc Folklore còn giữ vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Top Album Sales, Tastemaker Albums, Alternative Albums, Hot Rock & Alternative Songs Artists và Billboard 200 Female Artists. 11 bài hát từ Folklore lọt vào bảng xếp hạng Hot Rock & Alternative Songs cuối năm – đây là con số nhiều nhất với bất kỳ nghệ sĩ hoặc album nào.[197] Swift được xếp hạng là nghệ sĩ nữ được phát trực tuyến nhiều nhất trên Spotify Hoa Kỳ trong năm 2020,[176] và là nghệ sĩ được tiêu thụ nhiều nhất trong năm, với tổng cộng 3,5 triệu đơn vị (bao gồm 1,3 triệu bản được bán ra).[198] Là album bán chạy nhất năm 2020 tại Mỹ, Folklore đạt được 2,3 triệu đơn vị bao gồm 1,27 triệu bản thuần,[199][200] giúp Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên sở hữu nhiều album bán chạy nhất năm với năm lần, sau Fearless (2009), 1989, ReputationLover.[201] Ngoài ra, Folklore cũng là album bán chạy thứ tám của năm 2021, với 304.000 bản được tiêu thụ.[202]

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Canada, Folklore mở màn ở vị trí đầu bảng trên bảng xếp hạng Billboard Canadian Albums với tư cách là album quán quân thứ bảy liên tiếp của Taylor Swift, và trải qua bốn tuần đứng đầu bảng xếp hạng. Tất cả 16 bài hát của album đều ra mắt đồng thời trên bảng xếp hạng Canadian Hot 100, với "Cardigan", "Exile" và "The 1" lọt vào top 10.[203][204] Folklore xếp thứ 9 trong danh sách Top Canadian Albums cuối năm 2020; còn Swift là nữ nghệ sĩ duy nhất có hai album lọt vào top 15, với Lover ở vị trí thứ 13.[197]

Tại Vương quốc Anh, Folklore ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng UK Albums Chart với 37.000 bản, vượt qua Music To Be Murdered By của Eminem về lượng tiêu thụ nhạc số lớn nhất trong một tuần của năm 2020. Folklore trở thành album quán quân thứ năm liên tiếp của Swift, giúp cô trở thành một trong số năm nghệ sĩ nữ với ít nhất năm đĩa hát dẫn đầu tại quốc gia này – sau Madonna, Kylie Minogue, Barbra Streisand và Celine Dion – và là nghệ sĩ nữ đầu tiên làm được điều này trong thế kỷ 21.[205][206] Folklore giữ vị trí quán quân trong ba tuần liên tiếp, trở thành album đầu tiên của Swift đứng đầu bảng xếp hạng nhiều hơn một tuần.[207] Trên UK Singles Chart, "Cardigan", "Exile" và "The 1" lần lượt mở màn ở hạng 6, 8 và 10, nâng tổng số bài hát lọt top 10 tại Vương quốc Anh của Swift lên con số 16.[208] Cô cũng là nữ nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử Anh Quốc ra mắt cùng lúc ba bài hát trong top 10.[209] Folklore là album được tải về nhiều nhất ở Vương quốc Anh năm 2020.[210] Sau khi được phát hành bản đĩa than, album cũng dẫn đầu bảng xếp hạng Official Vinyl Albums Chart.[211] Tại Ireland, Folklore đứng vị trí số một trên bảng xếp hạng Irish Albums Chart, thiết lập tuần mở màn lớn nhất năm 2020 tại đây với doanh số vượt trội hoàn toàn so với cả bốn album còn lại trong top 5 cộng lại. Swift trở thành nữ nghệ sĩ hát đơn đầu tiên có năm album đứng đầu ở Ireland trong thế kỷ 21. Folklore đứng đầu trong bốn tuần, trở thành album quán quân lâu nhất của Swift ở quốc gia này. "Exile", "Cardigan" và "The 1" lần lượt xuất hiện ở các vị trí thứ 3, thứ 4 và thứ 7 trên bảng xếp hạng đĩa đơn Irish Singles Chart, nâng tổng số bài hát lọt top 10 trong sự nghiệp của Swift lên con số 15.[212][213][214] Folklore là album đạt hạng nhất nhiều tuần nhất năm 2020 và được tải về nhiều nhất năm ở Ireland.[215] Đĩa nhạc cũng đạt vị trí quán quân tại nhiều lãnh thổ châu Âu khác như Bỉ,[216] Công hòa Séc,[217] Đan Mạch,[218] Estonia,[219] Phần Lan,[220] Hy Lạp,[221] Na Uy,[222] và Thụy Sỹ.[223][224]

Tại Trung Quốc, album bán được hơn 200.000 bản trong sáu giờ đầu ra mắt và khoảng 740.000 bản trong tuần đầu ra mắt, ngay lập tức trở thành album bán chạy nhất và nhanh nhất năm 2020 của một nghệ sĩ phương Tây.[225][226] Folklore được chứng nhận Kim cương bởi QQ Music, đưa Swift trở thành nghệ sĩ phương Tây đầu tiên có bốn album – cùng với Reputation, 1989Lover – đạt được cột mốc này.[225] Đây là album tiếng Anh được phát trực tuyến nhiều nhất trên nền tảng trong năm 2020.[227] Tại Malaysia, Folklore sở hữu chín bài hát top 20 trên bảng xếp hạng RIM Singles, với "Cardigan", "Exile", "The 1", "My Tears Ricochet" và "The Last Great American Dynasty" đều lọt vào top 10.[228] Tại Singapore, 14 bài hát trong album đổ bộ lên bảng xếp hạng RIAS Singles, 11 trong số đó lọt vào top 20 và 5 trong top 10.[229]

Tại Úc, Folklore đứng đầu bảng xếp hạng ARIA Albums Chart; đây là album thứ sáu của Swift làm được điều này, giúp cô sở hữu nhiều đĩa hát quán quân hơn bất kỳ nghệ sĩ nào trong giai đoạn 2010–2020.[230] 16 bài hát của album cùng nhau lọt vào top 50 của bảng xếp hạng ARIA Singles Chart, phá vỡ kỷ lục mọi thời đại về số lần ra mắt nhiều nhất trong một tuần, vốn được nắm giữ trước đó bởi Post MaloneEd Sheeran. "Cardigan" trở thành đĩa đơn quán quân thứ sáu của Swift tại thị trường này, trong khi "Exile", "The 1", "The Last Great American Dynasty" và "My Tears Ricochet" đều lọt vào top 10, giúp Swift trở thành nghệ sĩ có nhiều bài hát trong top 10 nhất ở Úc năm 2020.[231] Folklore đứng đầu bảng xếp hạng album suốt bốn tuần liên tiếp; đây là album quán quân tại Úc lâu nhất của Swift kể từ 1989, là album duy nhất trong năm 2020 đứng đầu trong hơn hai tuần,[232][233] đồng thời cũng là album bán chạy nhất năm 2020 của một nghệ sĩ nữ.[234] Tại New Zealand, Folklore ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Official Top 40 Albums và tiếp tục dẫn đầu ở tuần kế tiếp.[235][236] Ba bài hát "Cardigan", "Exile" và "The 1" đều lọt vào top 10 của bảng xếp hạng Official Top 40 Singles, bên cạnh "The Last Great American Dynasty" đứng thứ 13.[237] Trong danh sách album cuối năm 2020 của RMNZ, Folklore xuất hiện ở vị trí thứ 7.[238]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Folklore và các bài hát từ album đã nhận được năm đề cử tại Giải Grammy lần thứ 63, và album giành chiến thắng giải Album của năm. Thành tích này giúp Taylor Swift trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên trong lịch sử có ba lần chiến thắng ở hạng mục này và là nghệ sĩ thứ tư nếu tính tổng thể.[239] Album cũng là ứng viên cho hạng mục Album giọng pop xuất sắc nhất, trong khi "Cardigan" được đề cử cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhấtBài hát của năm, đưa Swift trở thành nữ nghệ sĩ được đề cử nhiều nhất ở hạng mục Bài hát của năm với năm lần. "Exile" cũng tranh giải Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất.[240][241] Tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2020, Swift nhận được bốn đề cử: Nghệ sĩ của năm, Nữ nghệ sĩ Pop/Rock được yêu thích nhất, Video ca nhạc được yêu thích nhất cho "Cardigan" và Album Pop/Rock được yêu thích nhất cho Folklore, và được xướng tên ở ba hạng mục đầu,[242] tạo kỷ lục nghệ sĩ đạt nhiều chiến thắng nhất trong lịch sử lễ trao giải với tổng cộng 32 giải thưởng.[243] Đây cũng là năm thứ ba liên tiếp Swift được trao giải Nghệ sĩ của năm, và cũng là năm thứ sáu cô đạt giải này, giúp Swift trở thành là nghệ sĩ đầu tiên và duy nhất làm được điều này.[244]

Giải thưởng và đề cử của Folklore
Năm Tổ chức Giải thưởng Kết quả Ng.
2020 Giải thưởng Âm nhạc Mỹ Album Pop/Rock được yêu thích nhất Đề cử
Giải Apple Music Người viết bài hát của năm (Folklore) Đoạt giải
Giải thưởng Âm nhạc ARIA Nghệ sĩ quốc tế xuất sắc nhất (Folklore) Đề cử
Giải thưởng Âm nhạc Đan Mạch Album quốc tế của năm Đoạt giải
Giải E! People's Choice Album của 2020 Đề cử
Sách Kỷ lục Guinness Album có lượng stream trong một ngày lớn nhất trên Spotify (nghệ sĩ nữ) Đoạt giải [169]
Giải thưởng Âm nhạc Thường niên NetEase Top album phương Tây Đoạt giải
Top album nhạc dân ca Đoạt giải
2021 Giải thưởng Âm nhạc Billboard Top album Billboard 200 Đề cử
Giải Gaffa Album quốc tế của năm Đề cử
Giải Grammy Album của năm Đoạt giải
Album giọng pop xuất sắc nhất Đề cử
Japan Gold Disc Awards 3 album phương Tây xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Juno Album quốc tế của năm Đề cử
Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio Album pop xuất sắc nhất Đoạt giải
2022 Giải TEC Thành tựu sáng tạo đột phá – Bản thu sản xuất/album Đề cử

Ảnh hưởng xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Việc Taylor Swift phát hành Folklore đã làm bùng nổ sự quan tâm rộng rãi và đột biến đối với thuật ngữ "folklore" trên internet. Để đáp lại sự phổ biến đại chúng này, Hiệp hội Văn hóa Dân gian Hoa Kỳ thành lập trang web "What is Folklore?"[i] và tiến hành một chiến dịch trực tuyến để giáo dục người dân về những nghiên cứu văn hóa dân gian. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian được tuyển dụng để quảng bá lĩnh vực học thuật đến công chúng thông qua mạng xã hội.[257] Lưu lượng truy cập của trang Metacritic đã tăng vọt lên khoảng nửa triệu lượt khi Folklore phát hành. Nhà sáng lập nhận định, "Không gì có thể giống được như Taylor Swift" khi những album của cô đem lại "lượng truy cập và sự tham gia của người dùng vô cùng lớn" trên trang web này bất cứ khi nào một album được phát hành.[258]

Ngay khi phát hành, Folklore đã được nhận định là một dự án được thực hiện trong thời gian phong tỏa[259] và gây được tiếng vang dưới danh nghĩa một album cách ly nguyên mẫu.[260] The Guardian cho rằng Folklore là một quãng nghỉ sau những sự kiện hỗn loạn, chuyển đổi những cảm xúc tiêu cực thành một thứ gì đó đẹp đẽ hơn.[65] The Daily Telegraph gọi đĩa hát là "một chiến thắng đầy tinh tế và cảm thông giữa phong tỏa".[57] NME viết rằng tác phẩm sẽ được nhớ tới như một "album phong tỏa đầy tinh túy" và "có cảm giác như một bản nhạc đệm hoàn hảo cho nỗi cô đơn kỳ lạ" vào năm 2020.[168][261] Cảm nhận những điều tương tự, Insider nhận định rằng Folklore sẽ được biết đến như "một kiệt tác thực sự của thời kỳ phong tỏa".[147] Rolling Stone dự đoán rằng Folklore có thể đi vào lịch sử với tư cách là "album cách ly đúng nghĩa" vì mang lại sự thoải mái và thanh lọc "ngay lúc chúng ta cần nó nhất".[146] Trang Billboard nhận định Folklore sẽ được trân trọng như một trong những bản thu âm có ảnh hưởng nhất của Swift.[8] Uproxx nhìn nhận Folklore đã thay đổi sắc thái của ngành công nghiệp âm nhạc trong năm 2020,[262] đồng thời đề cập thêm rằng tác động của Folklore đối với bối cảnh văn hóa trong năm 2020 là "không thể nào đếm được".[150]

Trong danh sách vinh danh các tác phẩm sáng tạo đã định hình giai đoạn cách ly, trang Vulture gọi Folklore là "Sản phẩm âm nhạc phá cách nhất" năm 2020 khi đặc tả thành công những khía cạnh của nỗi cô đơn.[263] Vogue cũng gọi tên album là một trong số những khoảnh khắc đẹp nhất của văn hóa phong tỏa.[264] The Week gọi Folklore là "tác phẩm nghệ thuật xuất sắc trong đại dịch" khi tác phẩm đã đặt ra "thang tiêu chuẩn cao" cho các dự án về đại dịch sau này.[265] Đồng ý với quan điểm trên, Financial Times gọi đây là "album phong tỏa đỉnh cao đầu tiên",[266] còn tờ Hot Press cũng vinh danh đĩa hát là "album tuyệt vời đầu tiên của kỷ nguyên phong tỏa".[267] Đánh giá dựa trên thành công chuyên môn và thương mại, nhà phê bình Tom Hull kết luận rằng Swift "nắm bắt được tinh thần của thời điểm này" với "những bài hát dài, êm dịu, phức tạp" của Folklore.[268] Billboard gọi FolkloreEvermore là ví dụ điển hình về những album đậm tính đổi mới khi các nghệ sĩ buộc phải thay đổi quy trình sáng tạo của mình giữa thời điểm đại dịch, đồng thời nêu bật lên cách tiếp cận độc đáo của Swift trong việc tạo ra Folklore,[269] và trong danh sách "25 khoảnh khắc âm nhạc đã định nghĩa quý đầu tiên của năm 2020", trang web này đã ví album như một "cú hích thương mại".[270] Năm 2023, The New York Times vinh danh Folklore là một trong "17 khoảnh khắc văn hóa đại chúng đã định nghĩa kỷ nguyên COVID".[271]

Các giác như thế giới của tôi đã được mở ra theo một cách đầy sáng tạo. Có thời điểm mà tôi nhận ra tôi là một người viết lời nhạc chỉ viết những bài hát mang tính chất nhật ký, và tôi cảm thấy điều đó không bền vững cho tương lai của mình. Vì vậy, những gì tôi cảm thấy sau khi chúng tôi phát hành Folklore là "ồ, mọi người cũng thích điều này, điều này thực sự tốt cho cuộc sống của tôi và thực sự tốt cho khả năng sáng tạo của tôi".

— Swift nói về cách Folklore sẽ thay đổi quá trình sáng tạo của cô trong tương lai, Apple Music 1[272]
Swift biểu diễn màn diễn Folklore tại chuyến lưu diễn The Eras Tour (2023)

Việc sáng tạo cũng như sự đón nhận nồng nhiệt đối với Folklore đã khuyến khích Swift phát hành Evermore. Bản thân Swift cũng thừa nhận Folklore đã mở ra một tư duy sáng tác mới mẻ hơn, từ đó ảnh hưởng đến các bản phát hành sau này của nữ ca sĩ.[58] Folklore là album nổi tiếng nhất năm 2020 trên Genius[273] và Swift cũng là nghệ sĩ được tìm kiếm lời bài hát nhiều nhất năm 2020 trên nền tảng này.[274] Cô còn là nghệ sĩ hát đơn được trả thù lao cao nhất thế giới năm 2020,[275] và nghệ sĩ được trả thù lao cao nhất ở Hoa Kỳ.[276] Năm 2023, Swift bắt tay vào thực hiện chuyến lưu diễn The Eras Tour với tổng cộng mười màn diễn, trong đó màn diễn thứ bảy dành cho các bài hát trong album Folklore.[277]

Ảnh hưởng tới người trong ngành

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 1 năm 2021, Hayley Williams của nhóm nhạc Paramore phát hành album phòng thu thứ hai mang tên Flowers for Vases / Descansos, tác phẩm được Williams mô tả là phiên bản Folklore của riêng mình.[278] Phoebe Bridgers cũng dự định rằng đĩa hát tiếp theo của cô có thể được lấy cảm hứng từ Folklore.[279] Nhiều nhà phê bình ghi nhận ảnh hưởng của Folklore trong album đầu tay Sour (2021) cũng như đĩa đơn "Drivers License" của Olivia Rodrigo.[280][281] Ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Tây Ban Nha Zahara phát hành một bài hát có tựa đề "Taylor" để tri ân Swift và ghi nhận Folklore là nguồn cảm hứng khuyến khích cô sáng tác lại sau nhiều tháng cách ly.[282] Ca sĩ người Croatia Mia Dimšić lấy Folklore làm nguồn cảm hứng cho "Guilty Pleasure", bài hát đại diện cho Croatia tại Eurovision Song Contest 2022.[283][284] Christina PerriSabrina Carpenter cũng thừa nhận Folklore khuyến khích họ trung thực hơn với cảm xúc của bản thân khi sáng tác nhạc mà không phải lo lắng về những kỳ vọng bên ngoài.[285][286] Ca sĩ người Anh gốc Nhật Rina Sawayama nhận định chất thơ và sự vô thực của Folklore chính là nguồn cảm hứng cho album phòng thu thứ hai Hold the Girl (2022).[287] Nhà biên kịch Abby McDonald thì lấy bài hát "Illicit Affairs" làm nguồn cảm hứng cho tập "Định mệnh không tưởng" của mùa thứ 2 loạt phim Bridgerton.[288] Ca sĩ kiêm nhạc sĩ và diễn viên người Mỹ Maya Hawke cũng lấy cảm hứng từ các sáng tác trong Folklore để thực hiện album phòng thu thứ hai – Moss (2022).[289] Sau Folklore, nhiều nghệ sĩ như Hawke,[290] Gracie Abrams,[291] Ed Sheeran,[292] King Princess[293]Girl in Red[294] đã chọn cộng tác với Dessner và thu âm các bài hát tại phòng thu Long Pond Studio.[293]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần thực hiện được trích từ phần ghi chú của album và Tidal.[295][296] Tất cả tựa đề bài hát đều được viết cách điệu bằng chữ in thường.

Folklore – Bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."The 1"Dessner3:30
2."Cardigan"
  • Swift
  • Dessner
Dessner3:59
3."The Last Great American Dynasty"
  • Swift
  • Dessner
Dessner3:51
4."Exile" (hợp tác với Bon Iver)
  • Dessner
  • Joe Alwyn
4:45
5."My Tears Ricochet"Swift
4:15
6."Mirrorball"
  • Swift
  • Antonoff
  • Swift
  • Antonoff
3:29
7."Seven"
  • Swift
  • Dessner
Dessner3:28
8."August"
  • Swift
  • Antonoff
  • Swift
  • Antonoff
  • Alwyn
4:21
9."This Is Me Trying"
  • Swift
  • Antonoff
  • Swift
  • Antonoff
  • Alwyn
3:15
10."Illicit Affairs"
  • Swift
  • Antonoff
  • Swift
  • Antonoff
  • Alwyn
3:10
11."Invisible String"
  • Swift
  • Dessner
Dessner4:12
12."Mad Woman"
  • Swift
  • Dessner
Dessner3:57
13."Epiphany"
  • Swift
  • Dessner
Dessner4:49
14."Betty"
  • Swift
  • Bowery
  • Swift
  • Dessner
  • Antonoff
  • Alwyn
4:54
15."Peace"
  • Swift
  • Dessner
Dessner3:54
16."Hoax"
  • Swift
  • Dessner
Dessner3:40
Tổng thời lượng:63:29
Folklore – Bản Deluxe Edition[39]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
17."The Lakes"
  • Swift
  • Antonoff
  • Swift
  • Antonoff
3:32
Tổng thời lượng:67:01
Folklore – Bản Special Edition giới hạn tại Nhật Bản (kèm DVD)[297]
STTNhan đềĐạo diễnThời lượng
1."Cardigan" (Music Video)Taylor Swift4:35
2."The 1" (Lyrics Video) 3:32
3."Cardigan" (Lyrics Video) 4:01
4."The Last Great American Dynasty" (Lyrics Video) 3:52
5."Exile (hợp tác với Bon Iver)" (Lyrics Video) 4:47
6."My Tears Ricochet" (Lyrics Video) 4:17
7."Mirrorball" (Lyrics Video) 3:30
8."Seven" (Lyrics Video) 3:30
9."August" (Lyrics Video) 4:24
10."This Is Me Trying" (Lyrics Video) 3:16
11."Illicit Affairs" (Lyrics Video) 3:12
12."Invisible String" (Lyrics Video) 4:14
13."Mad Woman" (Lyrics Video) 3:59
14."Epiphany" (Lyrics Video) 4:51
15."Betty" (Lyrics Video) 4:56
16."Peace" (Lyrics Video) 3:55
17."Hoax" (Lyrics Video) 3:42
Tổng thời lượng:68:33

Đội ngũ thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách đội ngũ thực hiện được lấy từ Pitchfork, Tidal và phần ghi chú của album.[19][295][296]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Taylor Swift – hát chính
  • Aaron Dessner – piano (1–4, 7, 11–16), guitar acoustic (1, 7, 11, 12, 16), guitar điện (1–4, 11–14, 16), lập trình trống (1–4, 7, 11, 12), Mellotron (1, 2, 11, 13, 15), OP-1 (1, 4, 16), synth bass (1, 16), bộ gõ (2–4, 7, 11, 12, 14), bass (2, 3, 7, 11, 12, 14, 15), synthesizer (2–4, 7, 11–13, 15), guitar trượt (3), đàn phím (3), guitar dây cao (14), thu âm ngoại cảnh (15), drone (15)
  • Bryce Dessner – phối khí dàn nhạc (1–4, 7, 11–13)
  • Thomas Bartlett – synthesizer (1), OP-1 (1)[j]
  • Jason Treuting – bộ gõ (1)[j]
  • Yuki Numata Resnick – vĩ cầm trầm (1, 2, 7, 11, 12), vĩ cầm (1, 2, 7, 11, 12)
  • Benjamin Lanz – synthesizer nhiều module (2)
  • Dave Nelson – kèn trombone (2, 13)[j]
  • James McAlister – lập trình trống (2, 11), lập trình beat (12), synthesizer (12), bộ gõ bằng tay (12), trống (12)[j]
  • Clarice Jensen – trung hồ cầm (2, 7, 11–13)[j]
  • Rob Moose – phối khí dàn nhạc (3, 16), vĩ cầm (3, 4, 16), vĩ cầm trầm (3, 4, 16)[j]
  • JT Bates – trống (3, 7, 13)[j]
  • Justin Vernon – hát chính (4), pulse (15)[j]
  • Jack Antonoff – biểu diễn trống trực tiếp (5, 6, 8–10, 14), bộ gõ (5, 6, 8–10, 14), lập trình (5, 6, 8–10), guitar điện (5, 6, 8–10, 14), đàn phím (5, 6, 8–10), piano (5), bass (5, 8–10, 14), hát đệm (5, 6, 9, 10), guitar acoustic (6, 8, 14), B3 (6, 14), organ (9), Mellotron (14)
  • Evan Smith – saxophone (5, 8–10, 14), đàn phím (5, 8–10), lập trình (5), sáo (8), guitar điện (8, 10), phong cầm (10), hát đệm (10), kèn clarinet (14)
  • Bobby Hawk – bộ dây (5, 8, 9)
  • Bryan Devendorf – lập trình trống (7)[j]
  • Jonathan Low – synth bass (8)[j]
  • Mikey Freedom Hart – guitar thép có bàn đạp (10, 14), Mellotron (14), Wurlitzer (14), harpsichord (14), vibraphone (14), guitar điện (14)
  • Kyle Resnick – trumpet (13)[j]
  • Josh Kaufman – harmonica (14), guitar điện (14), guitar lap steel (14)[j]

Thu âm nhạc cụ bổ sung[k]

  • Kyle Resnick – vĩ cầm trầm (1, 2, 7, 11–13), vĩ cầm (1, 2, 7, 11–13)
  • Bella Blasko – synthesizer nhiều module (2)
  • Lorenzo Wolff – bộ dây (5, 9)
  • Mike Williams – bộ dây (8)
  • Jon Gautier – bộ dây (8)
  • Benjamin Lanz – kèn trombone (13)

Kỹ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Jonathan Low – thu âm (1–4, 7, 11–16), phối khí (1–4, 7, 8, 11, 15, 16)
  • Aaron Dessner – thu âm (1–4, 7, 11–16), thu âm bổ sung (2, 11)
  • Laura Sisk – thu âm (5, 6, 8–10, 14), thu âm giọng hát (1–3; của Swift trong bài 4; 13, 15, 16)
  • Jack Antonoff – sản xuất (5, 6, 8–10, 14)
  • Bella Blasko – sản xuất bổ sung (2)
  • Justin Vernon – sản xuất giọng hát (cho Bon Iver trong bài 4)
  • John Rooney – trợ lý kỹ sư (5, 9, 14)
  • Jon Sher – trợ lý kỹ sư (5, 9)
  • Serban Ghenea – phối khí (5, 6, 9, 10, 12–14)
  • John Hanes – kỹ sư phối khí (5, 6, 9, 10, 12–14)
  • Randy Merrill – master (tất cả bài hát)

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Taylor Swift – tạo mẫu trang phục, làm tóc và trang điểm, sáng tạo bao bì và chỉ đạo nghệ thuật
  • Beth Garrabrant – nhiếp ảnh gia
  • 13 Management – thiết kế bao bì, hỗ trợ và điều phối dự án
  • Republic Records – hỗ trợ và điều phối dự án

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận của Folklore
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[364] Bạch kim 70.000double-dagger
Áo (IFPI Áo)[365] Vàng 7.500double-dagger
Bỉ (BEA)[366] Vàng 10.000double-dagger
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[367] Bạch kim 20.000double-dagger
Ý (FIMI)[368] Vàng 25.000double-dagger
New Zealand (RMNZ)[369] 3× Bạch kim 45.000double-dagger
Na Uy (IFPI)[370] Bạch kim 20.000*
Ba Lan (ZPAV)[371] Bạch kim 20.000double-dagger
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[372] Vàng 20.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[373] Bạch kim 300.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[374] 2× Bạch kim 2.000.000double-dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày phát hành và định dạng phát hành của Folklore
Khu vực Ngày phát hành Định dạng Phiên bản Nhãn hiệu Ng.
Nhiều quốc gia 24 tháng 7 năm 2020 Bản tiêu chuẩn Republic Records [375]
Vương quốc Anh 4 tháng 8 năm 2020 CD Bản Deluxe Edition EMI Records [376]
Nhiều quốc gia 7 tháng 8 năm 2020 Republic Records [116]
Nhật Bản CD Universal Music Group [377]
Bản Special Edition [297]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Bảy ảnh bìa khác nhau của phiên bản đĩa vật lý giới hạn được bán trên trang web chính thức của Taylor Swift,[1] ngoài ra, một phiên bản đĩa vật lý khác cũng được phát hành độc quyền bởi Target.[2]
  2. ^ Kỷ lục này sau đó bị phá vỡ bởi Red (Taylor's Version) – album tái thu âm thứ hai của Swift – vào ngày 12 tháng 11 năm 2021[3] và sau đó tiếp tục bị album phòng thu thứ mười Midnights phá vỡ vào ngày 21 tháng 10 năm 2022.[4]
  3. ^ Tạm dịch: "hiển linh"
  4. ^ Tạm dịch: "bi ca"
  5. ^ Tạm dịch: "ly dị"
  6. ^ Tạm dịch: "kính vạn hoa"
  7. ^ Mặc dù không được đề cập trong lời bài hát, Swift đề cập đến người kể chuyện giấu tên của "August" với hai cái tên Augustine hoặc Augusta.[67][68]
  8. ^ Tạm dịch: "vật bất ly thân"
  9. ^ Tạm dịch: "Văn hóa dân gian là gì?"
  10. ^ a b c d e f g h i j k l Nghệ sĩ này cũng được ghi nhận là đã tự thu âm phần nhạc cụ của chính mình.
  11. ^ Một số nghệ sĩ cũng được ghi nhận là đã tự thu âm phần nhạc cụ của chính họ, như đã ghi chú ở mục 'Âm nhạc'.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Haylock, Zoe (23 tháng 7 năm 2020). “Which of Taylor Swift's 8 Folklore Covers Are You?”. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  2. ^ a b c “Taylor Swift – folklore (Target Exclusive, CD)”. Target (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  3. ^ Iasimone, Ashley (14 tháng 11 năm 2021). “Taylor Swift Breaks Spotify Single-Day Streaming Records With Red (Taylor's Version). Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2021.
  4. ^ Caulfield, Keith (30 tháng 10 năm 2022). “Taylor Swift's 'Midnights' Blasts in at No. 1 on Billboard 200 Chart With Biggest Week for an Album in 7 Years”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2023.
  5. ^ a b Lipshutz, Jason (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore': There's Nothing Quiet About This Songwriting Tour De Force” [Folklore của Taylor Swift: Không có gì là yên tĩnh về tour de force sáng tác này]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  6. ^ O'Kane, Caitlin (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift announces surprise album, recorded "in isolation" [Taylor Swift bất ngờ công bố album, thu âm "trong giãn cách"]. CBS News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  7. ^ Shah, Neil (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's New Album 'Folklore' Is Making a Surprise Debut” [Album mới Folklore của Taylor Swift ra mắt bất ngờ]. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  8. ^ a b c d e “The 50 Best Albums of 2020: Staff Picks” [50 album hay nhất năm 2020: Lựa chọn của biên tập viên]. Billboard (bằng tiếng Anh). 7 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  9. ^ a b Reilly, Nick (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift to release surprise eighth album 'Folklore' tonight” [Taylor Swift sẽ bất ngờ phát hành album thứ tám Folklore vào tối nay]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  10. ^ a b Sheffield, Rob (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Leaves Her Comfort Zones Behind on the Head-Spinning, Heartbreaking 'Folklore' [Taylor Swift bỏ lại vùng an toàn ở phía sau với một Folklore quay cuồng và đầy đau thương]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  11. ^ a b Cohen, Jess (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's Folklore Album Lyrics Decoded: Love, Loss and a "Mad Woman" [Giải mã lời bài hát cho album Folklore của Taylor Swift: Tình yêu, sự mất mát và một "Mad Woman"]. E! (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  12. ^ Kircher, Madison Malone (24 tháng 7 năm 2020). “Wrap Yourself Up in Taylor Swift's 'cardigan' Music Video” [Quấn mình trong video ca nhạc "cardigan" của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  13. ^ Cosores, Philip (27 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Burns Bright In Dark Times” [Folklore của Taylor Swift bừng sáng trong những thời khắc tối tăm]. Uproxx (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  14. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q Suskind, Alex (9 tháng 12 năm 2020). “Taylor Swift broke all her rules with 'Folklore' — and gave herself a much-needed escape” [Taylor Swift phá vỡ mọi quy tắc với Folklore – và cho bản thân một lối thoát rất cần thiết]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  15. ^ Warner, Denise (25 tháng 11 năm 2020). “11 Things We Learned From Taylor Swift's 'Folklore: The Long Pond Studio Sessions' [11 điều chúng ta học được từ Folklore: The Long Pond Studio Sessions của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  16. ^ a b c d e f g Doyle, Patrick (13 tháng 11 năm 2020). “Musicians on Musicians: Taylor Swift & Paul McCartney” [Nhạc sĩ nói về nhạc sĩ: Taylor Swift và Paul McCartney]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  17. ^ a b c 'It Started With Imagery': Read Taylor Swift's Primer For 'Folklore' ['Nó bắt đầu bằng những hình ảnh': Đọc về sự khởi đầu của Taylor Swift cho Folklore]. Billboard (bằng tiếng Anh). 24 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  18. ^ Kaufman, Gil (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift 'Folklore' Collaborator Reveals How They Wrote Songs in Just Hours” [Cộng sự của Taylor Swift trong Folklore tiết lộ cách họ viết các bài hát chỉ trong vài giờ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  19. ^ a b c d Strauss, Matthew; Minsker, Evan (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Releases New Album folklore: Listen and Read the Full Credits” [Taylor Swift ra mắt album mới Folklore: Nghe và đọc danh sách đội ngũ thực hiện hoàn chỉnh]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  20. ^ a b Blistein, Jon (24 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift to Release New 'Folklore' Film, 'The Long Pond Studio Sessions' [Taylor Swift phát hành bộ phim Folklore mới, The Long Pond Studio Sessions]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  21. ^ “Taylor Swift unveils William Bowery's identity, and more revelations from 'Folklore' concert film” [Taylor Swift tiết lộ danh tính của William Bowery và nhiều tiết lộ khác từ bộ phim hòa nhạc Folklore]. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  22. ^ a b c d e f Sodomsky, Sam (24 tháng 7 năm 2020). “The National's Aaron Dessner Talks Taylor Swift's New Album folklore” [Aaron Dessner của The National nói về album mới Folklore của Taylor Swift]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  23. ^ “jack antonoff trên Instagram: "folklore :: working with taylor is a full connection to all of the wonder of making music. knowing her and making work with her gives me…" [folklore :: làm việc với taylor là sự kết nối trọn vẹn với tất cả những điều kỳ diệu của công việc sáng tác nhạc. được biết cô và làm việc với cô mang lại cho tôi…]. Instagram (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  24. ^ Hess, Liam (27 tháng 11 năm 2020). “5 Things We Learned Watching Taylor Swift's Surprise New Folklore Documentary” [5 điều chúng tôi học được khi xem phim tài liệu Folklore mới đầy bất ngờ của Taylor Swift]. British Vogue (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  25. ^ Kaufman, Gil (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Was Bummed About Her Summer Plans Not Panning Out, So She's Releasing a New Album... Tonight” [Taylor Swift thất vọng vì kế hoạch cho mùa hè của mình không thành công nên cô ấy sẽ phát hành album mới... đêm nay]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  26. ^ a b c d e f g h i j k l m n Gerber, Brady (27 tháng 7 năm 2020). “The Story Behind Every Song on Taylor Swift's folklore” [Câu chuyện đằng sau mỗi bài hát trong Folklore của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  27. ^ a b c d e Blistein, Jon (24 tháng 7 năm 2020). “How Aaron Dessner and Taylor Swift Stripped Down Her Sound on 'Folklore' [Aaron Dessner và Taylor Swift đã tinh giản âm thanh như thế nào trong Folklore]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  28. ^ Havens, Lyndsey (17 tháng 9 năm 2020). 'There Were Fireworks, Musically': Aaron Dessner Opens Up About Making 'Folklore' With Taylor Swift”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  29. ^ Blistein, Jon (23 tháng 7 năm 2020). “Hear Taylor Swift's New Album 'Folklore' [Nghe album mới Folklore của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2020.
  30. ^ Kaufman, Gil (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Was Bummed About Her Summer Plans Not Panning Out, So She's Releasing A New Album... Tonight” [Taylor Swift thất vọng vì kế hoạch mùa hè của mình không diễn ra, vậy nên cô ấy sẽ phát hành một album mới... vào đêm nay]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  31. ^ Bailey, Alyssa (24 tháng 7 năm 2020). “Is Taylor Swift's Boyfriend Joe Alwyn Credited as William Bowery on 'Folklore'?” [Có phải bạn trai của Taylor Swift, Joe Alwyn, được đề tên là William Bowery trong Folklore không?]. Elle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  32. ^ O'Connor, Roisin (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift fans are trying to work out who the mysterious William Bowery is”. The Independent (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  33. ^ Aubrey, Elizabeth (25 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift confirms the identity of 'Folklore' song co-writer William Bowery” [Taylor Swift xác nhận danh tính người đồng sáng tác các bài hát trong Folklore, William Bowery] (bằng tiếng Anh). NME. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  34. ^ “Taylor Swift confirms boyfriend Joe Alwyn is mystery Folklore co-writer” [Taylor Swift xác nhận bạn trai Joe Alwyn là người đồng sáng tác bí ẩn của Folklore]. BBC (bằng tiếng Anh). 25 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  35. ^ Cohen, Jonathan (23 tháng 7 năm 2020). “Who Is Aaron Dessner, Taylor Swift's Main Collaborator on 'Folklore'?” [Aaron Dessner, cộng sự chính của Taylor Swift trong Folklore là ai?]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  36. ^ Richard, Will (26 tháng 7 năm 2020). “Aaron Dessner says he kept Taylor Swift collaboration secret from 8-year-old daughter” [Aaron Dessner cho biết anh giữ bí mật về việc hợp tác với Taylor Swift với cả con gái 8 tuổi]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  37. ^ Shaffer, Claire (31 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's Cinematographer: How We Shot 'Folklore' Video During a Pandemic” [Nhà quay phim của Taylor Swift: Cách chúng tôi quay video Folklore trong thời điểm đại dịch]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  38. ^ “Taylor Swift on Instagram”. Instagram. Taylor Swift. 24 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2020.
  39. ^ a b c Kaufman, Gil (18 tháng 8 năm 2020). “Listen to a Delightful Bonus Song From the Deluxe Edition of Taylor Swift's 'Folklore'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  40. ^ Urbanek, Sydney (26 tháng 11 năm 2020). “Folklore: The Long Pond Studio Sessions review – A triumphant debut from Taylor Swift” [Đánh giá Folklore: The Long Pond Studio Sessions – Màn ra mắt thành công của Taylor Swift]. Little White Lies (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  41. ^ a b Grein, Paul (4 tháng 8 năm 2020). “Will the Grammys Classify Taylor Swift's 'Folklore' as Pop or Alternative?” [Giải Grammy sẽ phân loại Folklore của Taylor Swift là pop hay alternative?]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  42. ^ a b Bruner, Raisa; R. Chow, Andrew (27 tháng 11 năm 2020). “The 10 best albums of 2020” [Top 10 album hay nhất năm 2020]. Time (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  43. ^ a b c Johnson, Ellen (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Morphs Her Sound Yet Again on the Stunning folklore” [Taylor Swift lại biến đổi âm thanh của mình trong một Folklore đầy mê hoặc]. Paste (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  44. ^ a b c d e f g h i j k Snapes, Laura (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift: Folklore review – bombastic pop makes way for emotional acuity”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  45. ^ a b c d e f g h Nguyen, Giselle Au-Nhien (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's new album is a fever dream you won't want to wake up from” [Album mới của Taylor Swift là một giấc mơ gây sốt mà bạn sẽ không muốn tỉnh dậy]. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  46. ^ a b c d e f g h i Mylrea, Hannah (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift – 'Folklore' review: pop superstar undergoes an extraordinary indie-folk makeover”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  47. ^ Ryan, Gary (9 tháng 3 năm 2021). “The best lockdown albums – ranked on order of greatness” [Album phong tỏa hay nhất – xếp theo thứ tự hay nhất]. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2021.
  48. ^ a b c d e f g h Willman, Chris (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore': Album Review” [Folklore của Taylor Swift: Đánh giá album]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  49. ^ a b c d e f Mapes, Jillian (27 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift: folklore”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2020.
  50. ^ a b “The 60 Best Albums of 2020” [60 album hay nhất năm 2020]. PopMatters (bằng tiếng Anh). 7 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  51. ^ Bell, Kaelen (27 tháng 7 năm 2020). “Despite Her Best Efforts, Taylor Swift's 'folklore' Is Still a Pop Album” [Bất chấp những nỗ lực hết mình, Folklore của Taylor Swift vẫn là một album nhạc pop]. Exclaim! (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  52. ^ Petrusich, Amanda (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's Intimate 'Indie' Album, 'Folklore' [Album "indie" thân mật của Taylor Swift, Folklore]. The New Yorker (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  53. ^ a b Caramanica, Jon (26 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift, a Pop Star Done With Pop” [Taylor Swift, một ngôi sao nhạc pop gắn liền với pop]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  54. ^ a b c Kornhaber, Spencer (28 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Is No Longer Living in the Present” [Taylor Swift không còn sống ở thực tại nữa]. The Atlantic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  55. ^ a b c d e Sheffield, Rob (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Leaves Her Comfort Zones Behind on the Head-Spinning, Heartbreaking 'Folklore'. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  56. ^ a b c d Keefe, Jonathan (27 tháng 7 năm 2020). “Review: With Folklore, Taylor Swift Mines Pathos from a Widening Worldview”. Slant (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  57. ^ a b c d e f g h McCormick, Neil (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift, Folklore review: an exquisite, empathetic lockdown triumph”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  58. ^ a b “folklore by Taylor Swift”. Apple Music (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  59. ^ a b c d e f Carsom, Sarah (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift, Folklore, review: a dazzling, timeless surprise album” [Taylor Swift, Folklore, đánh giá: Một album bất ngờ rực rỡ, vượt thời gian]. i (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  60. ^ a b McKenna, Lyndsey (24 tháng 7 năm 2020). “Stream Taylor Swift's New Album, 'Folklore'. NPR (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  61. ^ a b c Sumsion, Michael (29 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Abandons Stadium-Pop for a New Tonal Approach on 'Folklore'. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  62. ^ a b Princiotti, Nora (24 tháng 7 năm 2020). “The 'Folklore' FAQ”. The Ringer (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2020.
  63. ^ Angulo, Ingrid (26 tháng 8 năm 2020). “Review: 'Folklore' by Taylor Swift”. The Huntington News. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2020.
  64. ^ McCready, Marina (9 tháng 9 năm 2020). “Folklore: a lyrical ode to escapism”. Varsity. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  65. ^ a b c d e Bromwich, Kathryn (8 tháng 12 năm 2020). “The 50 best albums of 2020, No 9: Taylor Swift – Folklore” [50 album hay nhất năm 2020, số 9: Taylor Swift – Folklore]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  66. ^ a b “The 50 Best Albums of 2020” [50 album hay nhất năm 2020]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). 8 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  67. ^ Sheffield, Rob (25 tháng 11 năm 2020). “The Thanksgiving Miracle of Taylor Swift's Acoustic Folklore Session”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2021.
  68. ^ Lipshutz, Jason (24 tháng 7 năm 2021). “Taylor Swift Releases 'The Lakes (Original Version)' on Folklore One-Year Anniversary: Listen Now”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2021.
  69. ^ “Let's Talk About Taylor Swift's 'Folklore'. NPR (bằng tiếng Anh). 28 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  70. ^ a b c d e f g h i j k l m Ahlgrim, Callie (30 tháng 7 năm 2020). “Every detail and Easter egg you may have missed on Taylor Swift's new album 'Folklore' [Từng chi tiết và trứng Phục sinh có thể bạn đã bỏ lỡ trong album mới Folklore của Taylor Swift]. Insider (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  71. ^ Opperman, Jeff (12 tháng 3 năm 2021). “Taylor Swift Is Bringing Us Back to Nature”. The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  72. ^ a b Willman, Chris (1 tháng 1 năm 2021). “Year in Review: The Best Songs of 2020”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021.
  73. ^ Ahlgrim, Callie; Larocca, Courteney (25 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' might be the best album of her entire career”. Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2020.
  74. ^ “Today's Hits”. Apple Music (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  75. ^ “folklore Is Taylor Swift's Smoldering Pop Rebellion – Finally” [Folklore là cuộc nổi loạn nhạc pop âm ỉ của Taylor Swift – Cuối cùng cũng tới]. Spin (bằng tiếng Anh). 24 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  76. ^ Schwedel, Heather (25 tháng 7 năm 2020). “Every Proper Noun on Taylor Swift's Folklore, Charted”. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  77. ^ Ovenden, Olivia (3 tháng 8 năm 2020). “Dance Away The Bad News With The Best Albums Of 2020 (So Far)”. Esquire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  78. ^ Mamo, Heran (27 tháng 7 năm 2020). “6 Things to Know About Rebekah Harkness, the Muse Behind Taylor Swift's 'The Last Great American Dynasty' [6 điều cần biết về Rebekah Harkness, nàng thơ đằng sau "The Last Great American Dynasty" của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  79. ^ a b c d e Bruner, Raisa (24 tháng 7 năm 2020). “Let's Break Down Taylor Swift's Tender New Album Folklore” [Cùng phá nhỏ album mới đầy dịu dàng của Taylor Swift, Folklore]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  80. ^ a b c Curto, Justin (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift and Bon Iver Find Perfect Harmony on 'exile'. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  81. ^ Mamo, Heran (24 tháng 7 năm 2020). “What's Your Favorite Song on Taylor Swift's 'Folklore'? Vote!”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  82. ^ Nilles, Billy (25 tháng 7 năm 2020). “The MixtapE! Presents Taylor Swift, Brandy and More New Music Musts”. E! Online. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  83. ^ a b c d Wood, Mikael (26 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore': All 16 songs, ranked”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2020.
  84. ^ a b c Rosen, Jody (24 tháng 7 năm 2020). “Review: Taylor Swift's radically intimate 'Folklore' is the perfect quar album” [Đánh giá: Folklore gần gũi hoàn toàn của Taylor Swift là album cách ly hoàn hảo]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  85. ^ a b Moulton, Katie (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's folklore Dismantles Her Own Self-Mythologizing: Review” [Folklore của Taylor Swift phá bỏ sự thần thoại hóa bản thân của chính cô: Đánh giá]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  86. ^ a b c d e f g Kaplan, Ilana (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Is at Her Most Emotionally Raw On Surprise New Album 'Folklore' [Taylor Swift thể hiện cảm xúc chân thực nhất trong album mới đầy bất ngờ Folklore]. British Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  87. ^ a b c d e Gutowitz, Jill (24 tháng 7 năm 2020). “What Is Every Song on Taylor Swift's Folklore Actually About?” [Mỗi bài hát trong Folklore của Taylor Swift thực sự nói về điều gì?]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  88. ^ a b c Johnston, Maura (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift forges her own path on the confident Folklore: Review”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  89. ^ a b c d Zaleski, Annie (4 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift writes her own version of history on folklore” [Taylor Swift viết phiên bản lịch sử của riêng mình trong Folklore]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  90. ^ Carsom, Sarah (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift, Folklore, review: a dazzling, timeless surprise album”. i (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  91. ^ Hearon, Sarah (6 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift Confirms Blake Lively, Ryan Reynolds' Daughter Is Named Betty”. Us Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  92. ^ Gardner, Abby (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Folklore Album Review: Breaking Down All the References and Easter Eggs” [Đánh giá album Folklore của Taylor Swift: Giải thích các chi tiết tham khảo và trứng Phục sinh]. Glamour (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  93. ^ a b c Willman, Chris (8 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift, Prince, Bon Iver and More in Fri 5, the Best Songs of the Week” [Taylor Swift, Prince, Bon Iver và nhiều hơn nữa trong thứ Sáu ngày 5, những bài hát hay nhất trong tuần]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  94. ^ Whitfield, Zoe (24 tháng 9 năm 2020). “Meet the photographer behind Taylor Swift's folklore artwork”. i-D. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2020.
  95. ^ a b Frank, Allegra (24 tháng 7 năm 2020). “The 6 songs that explain Taylor Swift's new album, Folklore”. Vox (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  96. ^ a b Decker, Megan (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Did Her Own Hair For Her 'Folklore' Drop”. Refinery29 (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2020.
  97. ^ “the "in the trees" edition deluxe cd + digital standard album”. Taylor Swift Official Store. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  98. ^ a b c d e f Huber, Eliza (24 tháng 7 năm 2020). “Will Prairie & Cottagecore Fashion Define Taylor Swift's Folklore Era?” [Phong cách thời trang prairie và cottagecore xác định kỷ nguyên Folklore của Taylor Swift?]. Refinery29 (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  99. ^ a b Wohlmacher, John (27 tháng 7 năm 2020). “Album Review: Taylor Swift – folklore”. Beats Per Minute (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2020.
  100. ^ Spellings, Sarah (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Unveils a Surprisingly Moody Look for Her New Album”. Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  101. ^ “Taylor Swift Appears to Alter 'folklore' Album Merch After The Folklore Calls Her Out” [Taylor Swift thay đổi các sản phẩm đi theo album Folklore sau khi văn hóa dân gian gọi tên cô]. InStyle (bằng tiếng Anh). 28 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  102. ^ Carras, Christi (15 tháng 12 năm 2020). “Another new Taylor Swift album in 2020? 'This takes a bit of explanation,' she says” [Một album mới khác của Taylor Swift vào năm 2020? "Điều này cần một chút giải thích," cô nói]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  103. ^ Bowman, Emma (9 tháng 8 năm 2020). “The Escapist Land Of 'Cottagecore,' From Marie Antoinette To Taylor Swift”. NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020.
  104. ^ Valentine, Claire (24 tháng 7 năm 2020). “18 'folklore' Lyrics For Your Next Cottagecore Post”. Nylon (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2020.
  105. ^ a b c Handler, Rachel (28 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's Freaky folklore Movie Mood Board” [Bảng tâm trạng phim Folklore quái đản của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  106. ^ Munzenrieder, Kyle (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Has Discovered Cottagecore”. W Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2020.
  107. ^ Power, Ed (28 tháng 7 năm 2020). “The arrival of Taylor Swift's Folklore is proof folk music is having a moment - but she's late to the shindig”. Irish Independent (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2020.
  108. ^ “A brief history of the cardigan, from Coco Chanel to Taylor Swift” [Lược sử về chiếc cardigan, từ Coco Chanel cho tới Taylor Swift]. RTÉ (bằng tiếng Anh). 27 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  109. ^ Haran, Samantha (21 tháng 10 năm 2020). “On Taylor Swift's "Cardigan" and the Importance of Sentimental Value to Clothing” [Về "Cardigan" của Taylor Swift và tầm quan trọng của giá trị tinh thần đối với trang phục]. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  110. ^ Clark, Lucie (27 tháng 7 năm 2020). “What is cottagecore? The phenomenon made popular by Taylor Swift”. Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020.
  111. ^ Corr, Julieanne (17 tháng 1 năm 2021). “Taylor photo sparks Swift sales jump for Aran sweaters” [Hình ảnh của Taylor khiến doanh số bán áo len Aran tăng vọt]. The Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0140-0460. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  112. ^ Midkiff, Sarah (22 tháng 10 năm 2020). “The Coziest Costume Of 2020 Is Taylor Swift-Inspired, Duh” [Trang phục đẹp nhất năm 2020 lấy cảm hứng từ Taylor Swift]. Refinery29 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  113. ^ Aquilina, Tyler (25 tháng 7 năm 2020). “Nicole Kidman shouts out Taylor Swift's 'Folklore' fashion in Instagram post”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  114. ^ Leight, Elias (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Finally Abandoned the Traditional Album Rollout” [Taylor Swift cuối cùng đã từ bỏ phương pháp phát hành album truyền thống]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  115. ^ Fekadu, Mesfin (3 tháng 8 năm 2020). “Lucky No.7: Taylor Swift nabs 7th No.1 album with 'folklore' [Số 7 may mắn: Taylor Swift giành album quán quân thứ 7 với Folklore]. Washington Post (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  116. ^ a b Folklore. Amazon. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  117. ^ Hissong, Samantha (20 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift Starts Frenzy at Indie Record Stores With Surprise Signed 'Folklore' CDs”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  118. ^ Lavin, Will (19 tháng 9 năm 2020). “Taylor Swift sends 40 signed copies of 'Folklore' to Edinburgh record store”. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
  119. ^ Tannenbaum, Emily (1 tháng 8 năm 2020). “All the Celebrities Who Received a 'Folklore' Cardigan From Taylor Swift”. Glamour (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
  120. ^ Rowley, Glenn (21 tháng 9 năm 2020). “Here are All of Taylor Swift's 'Folklore' Chapters (So Far) in One Place”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2020.
  121. ^ “Taylor Swift to release surprise ninth album 'Evermore' tonight”. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  122. ^ McHenry, Jackson (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Wants to Sell You a 'Cardigan' Cardigan” [Taylor Swift muốn bán một chiếc cardigan "Cardigan"]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  123. ^ “Hot/Modern/AC Future Releases”. All Access. All Access Media Group. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  124. ^ “Top 40/M Future Releases”. All Access. All Access Media Group. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  125. ^ a b c “Taylor Swift Debuts at No. 1 on Hot 100 With 'Cardigan,' Is 1st Artist to Open Atop Hot 100 & Billboard 200 in Same Week” [Taylor Swift ra mắt ở vị trí số 1 trên Hot 100 với "Cardigan", là nghệ sĩ đầu tiên đứng đầu Hot 100 & Billboard 200 trong cùng một tuần]. Billboard (bằng tiếng Anh). 3 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  126. ^ Trust, Gary (28 tháng 1 năm 2021). “Taylor Swift's 'Coney Island' and 'No Body, No Crime' Debut on Airplay Charts, Joining 'Willow'. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2021.
  127. ^ “Future Releases on Triple A (AAA) Radio Stations, Independent Artist Song Releases | ...”. All Access (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2020.
  128. ^ “Future Releases for Country Radio Stations | New Music Artist Free Song | AllAccess.com”. All Access (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2020.
  129. ^ Asker, Jim (3 tháng 8 năm 2020). “Janson's Work Is 'Done' With Country Airplay Coronation; Swift, Shelton & Stefani Debut In Hot Country Songs Top 10” (PDF). Billboard Country Update (bằng tiếng Anh): 4. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  130. ^ "the 1" – Taylor Swift veröffentlicht neue Single aus Rekord-Album "folklore". Universal Music (bằng tiếng Đức). 9 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  131. ^ Kreps, Daniel (24 tháng 7 năm 2021). “Taylor Swift Shares Orchestral Version of 'The Lakes' on 'Folklore' Anniversary” [Taylor Swift chia sẻ phiên bản hòa tấu của "The Lakes" nhân dịp kỷ niệm Folklore]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2021.
  132. ^ Spangler, Todd (24 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift 'Folklore' Concert Film to Debut on Disney Plus” [Phim ca nhạc Folklore của Taylor Swift sẽ ra mắt trên Disney+]. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  133. ^ “Apple Music - Taylor Swift - folklore: the long pond studio sessions (from the Disney+ special) [deluxe edition]”. Apple Music. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  134. ^ “Folklore by Taylor Swift reviews”. AnyDecentMusic?. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  135. ^ a b “Folklore by Taylor Swift Reviews and Tracks”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
  136. ^ a b Erlewine, Stephen Thomas. “folklore – Taylor Swift”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2020.
  137. ^ Willman, Chris (24 tháng 7 năm 2020). “Review: Taylor Swift's 'Folklore' a reflective set created in COVID-19 isolation”. Chicago Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  138. ^ a b O'Connor, Roisin (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift, Folklore review: New album is exquisite, piano-based poetry” [Đánh giá Folklore của Taylor Swift: Album mới đầy tinh tế, đậm chất thơ với âm dương cầm]. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2020.
  139. ^ Copsey, Rob (26 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift 'Folklore' songs to dominate Official Singles Chart” [Các bài hát trong Folklore của Taylor Swift thống trị bảng xếp hạng Singles Chart]. Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  140. ^ Levine, Nick (26 tháng 7 năm 2020). “The Last Great American Dynasty: how Taylor Swift found her spirit animal in the eccentric heiress Rebekah Harkness” ["The Last Great American Dynasty": cách Taylor Swift tìm kiếm tâm hồn mãnh thú của mình từ nữ thừa kế lập dị Rebekah Harkness]. The Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  141. ^ “Taylor Swift's Folklore is the first album of 2020 to sell a million copies” [Folklore của Taylor Swift là album đầu tiên của năm 2020 bán được một triệu bản]. BBC (bằng tiếng Anh). 26 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  142. ^ Savage, Mark (24 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's Folklore sees the singer go indie” [Folklore của Taylor Swift chứng kiến ca sĩ đi theo phong cách indie]. BBC News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  143. ^ Mylrea, Hannah (23 tháng 9 năm 2020). “NME Recommends: the best autumnal albums”. NME. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2020.
  144. ^ Christgau, Robert (9 tháng 9 năm 2020). “Consumer Guide: September, 2020” [Hướng dẫn người tiêu dùng: Tháng 9 năm 2020]. And It Don't Stop (bằng tiếng Anh). Substack. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  145. ^ a b Mikael, Wood (9 tháng 12 năm 2020). “The 10 Best Albums of 2020”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2020.
  146. ^ a b c Bernstein, Jonathan; Blistein, Jon; Dolan, Jon; Doyle, Patrick; Ehlrich, Brenna; Freeman, Jon; Grow, Kory; Hoard, Christian; Hudak, Joseph; Leight, Elias; Martoccio, Angie; Shaffer, Claire; Sheffield, Rob; Shteamer, Hank; Vozick-Levinson, Simon; Blake, Emily (4 tháng 12 năm 2020). “The 50 Best Albums of 2020”. Rolling Stone. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2020.
  147. ^ a b Ahlgrim, Callie (9 tháng 12 năm 2020). “The 20 Best Albums of 2020, Ranked” [20 album hay nhất năm 2020, đã xếp hạng]. Insider (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  148. ^ Olivier, Bobby (20 tháng 12 năm 2020). “The 50 Albums That Saved Us From 2020” [50 album đã cứu chúng ta khỏi năm 2020] (bằng tiếng Anh). NJ.com. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  149. ^ “The best albums of 2020, from Taylor Swift to BTS and Dua Lipa” [Những album hay nhất năm 2020, từ Taylor Swift đến BTS và Dua Lipa]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). 15 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  150. ^ a b “The Best Albums of 2020” [Những album hay nhất năm 2020]. Uproxx (bằng tiếng Anh). 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  151. ^ Ryan, Patrick (14 tháng 12 năm 2020). “The 10 best albums of 2020, including Taylor Swift, Phoebe Bridgers and Ariana Grande” [10 album hay nhất năm 2020, bao gồm Taylor Swift, Phoebe Bridgers và Ariana Grande]. USA Today (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  152. ^ “10 Best Albums of 2020: Taylor Swift, Bob Dylan, The Weeknd and More”. Us Weekly. 24 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  153. ^ “The Best Albums of 2020”. Variety. 14 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2020.
  154. ^ “Walla Walla record store owner rates Taylor Swift's new album top of Top-10 for 2020”. Walla Walla Union-Bulletin. 31 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021.
  155. ^ Dietz, Jason. “Best of 2020: Music Critic Top Ten Lists”. Metacritic. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  156. ^ Ahlgrim, Callie (15 tháng 9 năm 2020). “The 16 best songs of 2020” [16 bài hát hay nhất năm 2020]. Insider (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  157. ^ “Complex Staff Picks: Our Favorite Songs and Albums of 2020” [Lựa chọn phức tạp của các biên tập viên: Bài hát và album yêu thích năm 2020 của chúng tôi]. Complex (bằng tiếng Anh). 30 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  158. ^ “The 100 Best Songs of 2020” [100 bài hát hay nhất năm 2020]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). 7 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  159. ^ “The 29 Best Songs of 2020, According to Vogue Editors” [29 bài hát hay nhất năm 2020, theo các biên tập viên Vogue]. Vogue (bằng tiếng Anh). 4 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  160. ^ Leas, Ryan (8 tháng 12 năm 2020). “Stereogum's 60 Favorite Songs Of 2020”. Stereogum. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  161. ^ Bernstein, Jonathan; Blistein, Jon; Blake, Emily; Dolan, Jon; Ehrlich, Brenna; Freeman, Jon; Grow, Kory; Hoard, Christian; Leight, Elias; Martoccio, Angie; Shaffer, Claire; Sheffield, Rob (7 tháng 12 năm 2020). “The 50 Best Songs of 2020” [50 bài hát hay nhất năm 2020]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  162. ^ “All the Songs That Got Teen Vogue Editors Through 2020” [Tất cả các bài hát đã giúp biên tập viên Teen Vogue vượt qua năm 2020]. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  163. ^ Ganz, Jacob (3 tháng 12 năm 2020). “The 100 Best Songs Of 2020 (Nos. 40-21)” [100 bài hát hay nhất năm 2020 (số 40–21)] (bằng tiếng Anh). NPR. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  164. ^ Pareles, Jon; Caramanica, Jon; Zoladz, Lindsay (7 tháng 12 năm 2020). “Best Songs of 2020” [Những bài hát hay nhất năm 2020]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  165. ^ Savage, Mark (22 tháng 12 năm 2020). “The best albums and songs of 2020: Fiona Apple, Cardi B, Bob Dylan and Dua Lipa”. BBC News. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  166. ^ Greenblatt, Leah; Rodman, Sarah; Suskind, Alex (5 tháng 12 năm 2020). “The 15 Best Albums of 2020”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2020.
  167. ^ “The 40 Best Albums of 2020, from Bob Dylan's Rough and Rowdy Ways to Taylor Swift's Folklore. The Independent. 19 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  168. ^ a b “The 50 Best Albums Of 2020”. NME. 11 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
  169. ^ a b Stephenson, Kristen (29 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift breaks 24-hour streaming record on Spotify for 8th album folklore” [Taylor Swift phá kỷ lục streaming 24 giờ trên Spotify cho album thứ 8 Folklore]. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  170. ^ “BTS' 'Dynamite' beats Taylor Swift's 'Cardigan' to record biggest Spotify debut of 2020” ["Dynamite" của BTS đánh bại "Cardigan" của Taylor Swift để lập kỷ lục cho lần ra mắt lớn nhất trên Spotify năm 2020]. The Times of India (bằng tiếng Anh). 24 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  171. ^ Alexandra Steigrad (27 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift album 'Folklore' breaks Spotify, Apple Music streaming records” [Album Folklore của Taylor Swift phá kỷ lục phát trực tuyến của Spotify, Apple Music]. New York Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  172. ^ “Taylor Swift breaks first day streaming records with 'Folklore' [Taylor Swift phá kỷ lục streaming ngày đầu tiên với Folklore]. NME (bằng tiếng Anh). 25 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  173. ^ Aswad, Jem (25 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Sells 1.3 Million Copies in 24 Hours” [Folklore của Taylor Swift bán được 1,3 triệu bản trong 24 giờ]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  174. ^ Countryman, Eli (31 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Sells Over 2 Million Copies in First Week” [Folklore của Taylor Swift bán được hơn 2 triệu bản trong tuần đầu tiên]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  175. ^ a b Hissong, Samantha (27 tháng 7 năm 2020). 'Folklore' Is Already Bigger Than 'Lover' By Streams” [Folklore đã lớn hơn Lover tính theo lượt stream]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  176. ^ a b Aniftos, Rania (1 tháng 12 năm 2020). “Bad Bunny, The Weeknd, Billie Eilish Lead Spotify's 2020 Year-End List” [Bad Bunny, The Weeknd, Billie Eilish dẫn đầu danh sách cuối năm 2020 của Spotify]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  177. ^ “Holiday music listening started earlier in 2020 than ever before on Amazon Music” [Nghe nhạc mùa lễ hội năm 2020 sớm hơn bao giờ hết trên Amazon Music]. Amazon (bằng tiếng Anh). 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  178. ^ Brandle, Lars (11 tháng 3 năm 2021). “BTS Bag 'Unprecedented' 1-2 on IFPI's Global Album Sales Chart For 2020”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  179. ^ “BTS Crowned IFPI Global Recording Artist of 2020”. Billboard (bằng tiếng Anh). 4 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2021.
  180. ^ Caulfield, Keith (27 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Off to Fast Start, Over Half-Million Units Earned in U.S. in First Three Days” [Folklore của Taylor Swift có một khởi đầu nhanh chóng, bán được hơn nửa triệu bản ở Mỹ trong ba ngày đầu]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  181. ^ a b Caulfield, Keith (2 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift Achieves Seventh No. 1 Album on Billboard 200 Chart & Biggest Week of 2020 With 'Folklore' [Taylor Swift đạt album quán quân thứ bảy trên bảng xếp hạng Billboard 200 và tuần doanh số lớn nhất năm 2020 với Folklore]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  182. ^ “Taylor Swift & Barbra Streisand Are the Only Women to Achieve This Billboard 200 Chart Feat” [Taylor Swift & Barbra Streisand là những nữ nghệ sĩ duy nhất đạt được thành tích này trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  183. ^ a b “Taylor Swift's 'Folklore' Debuts at No. 1 on Alternative Albums, 'Cardigan' Starts Atop Hot Rock & Alternative Songs” [Folklore của Taylor Swift ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Alternative Album, "Cardigan" dẫn đầu bảng xếp hạng Hot Rock & Alternative Songs]. Billboard (bằng tiếng Anh). 3 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  184. ^ Constantino, George (14 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift's "folklore" is now fastest selling album of 2020” [Folklore của Taylor Swift hiện là album bán chạy nhất năm 2020]. ABC News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  185. ^ Caulfield, Keith (16 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Makes It a Third Week at No. 1 on Billboard 200 Chart” [Folklore của Taylor Swift lập tuần thứ ba ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  186. ^ Caulfield, Keith (23 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Rules for Fourth Week at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  187. ^ Grein, Paul (25 tháng 8 năm 2020). 'Folklore' Is Taylor Swift's Sixth Album to Top the Billboard 200 For Four Weeks: Just Four Other Artists Have Done That”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  188. ^ Caulfield, Keith (30 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Ties for Most Weeks at No. 1 in 2020 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  189. ^ Caulfield, Keith (6 tháng 9 năm 2020). “Taylor Swift Ties Whitney Houston for Most Weeks at No. 1 Among Women in Billboard 200's History”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  190. ^ Unterberger, Andrew (11 tháng 9 năm 2020). “Taylor Swift's Surprise Set 'Folklore' Had 2020's Biggest Debut – Here's How It's Still on Top Five Weeks Later”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  191. ^ Caulfield, Keith (27 tháng 9 năm 2020). “Taylor Swift Surpasses Whitney Houston for Most Weeks at No. 1 Among Women in Billboard 200's History” [Taylor Swift vượt qua Whitney Houston trở thành nghệ sĩ nữ có nhiều tuần giữ vị trí số 1 nhất trong lịch sử Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  192. ^ “Taylor Swift's 'Folklore' Back at No. 1 on Billboard 200 Chart for Eighth Week”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2020.
  193. ^ “Taylor Swift's 'Evermore' Arrives at No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  194. ^ Trust, Gary (3 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift Debuts at No. 1 on Hot 100 With 'Cardigan,' Is 1st Artist to Open Atop Hot 100 & Billboard 200 in Same Week”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  195. ^ Trust, Gary (3 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift Charts 16 Songs From 'Folklore' on Billboard Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  196. ^ Caulfield, Keith (3 tháng 12 năm 2020). “The Year in Charts 2020: Post Malone Is the Top Artist for the Second Year in a Row” [Một năm trên bảng xếp hạng năm 2020: Post Malone là nghệ sĩ đứng đầu năm thứ hai liên tiếp]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  197. ^ a b c d “2020 Year-End Billboard charts” [Bảng xếp hạng Billboard cuối năm 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  198. ^ Mayfield, Geoff (19 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift's Masters: What Shamrock Gets for $300 Million, Why It Matters, and What's Next”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2020.
  199. ^ Blake, Emily (5 tháng 1 năm 2021). 'Folklore' Is Officially the Biggest Album of 2020” [Folklore chính thức trở thành album lớn nhất năm 2020]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  200. ^ “MRC Data Year-End Report U.S. 2020” (PDF). Billboard. tr. 46, 47. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2021.
  201. ^ Caulfield, Keith (8 tháng 1 năm 2021). “Taylor Swift Has the Top-Selling Album of the Year in U.S. for Historic Fifth Time”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2021.
  202. ^ Caulfield, Keith (6 tháng 1 năm 2022). “Dua Lipa's 'Levitating' Is Most-Streamed Song of 2021 In U.S., Morgan Wallen's Dangerous: The Double Album Is MRC Data's Top Album” ["Levitation" của Dua Lipa là Bài hát được stream nhiều nhất năm 2021 tại Hoa Kỳ, Dangeous: The Double Album của Morgan Wallen là album dẫn đầu của MRC Data]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  203. ^ “Taylor Swift – Canadian Albums Chart History”. Billboard (bằng tiếng Anh). 23 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  204. ^ “Taylor Swift – Canadian Hot 100 History”. Billboard. 17 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  205. ^ White, Jack (31 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift's Folklore debuts at UK Albums Number 1” [Folklore của Taylor Swift ra mắt ở vị trí số 1 tại Vương quốc Anh]. Official Charts (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  206. ^ Sutherland, Mark. “Inside Taylor Swift's all-conquering debut week for Folklore” [Bên trong tuần ra mắt đầy chinh phục của Taylor Swift cho Folklore]. Music Week (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  207. ^ Ainsley, Helen (14 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift holds for a third week at Number 1 with Folklore” [Taylor Swift giữ vững vị trí số 1 ở tuần thứ ba với Folklore]. Official Charts (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  208. ^ “Taylor Swift Set to Land Three 'Folklore' Tracks in U.K. Top 10”. Billboard. 27 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  209. ^ “Joel Corry & MNEK hold on to Number 1 with Head & Heart”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  210. ^ @officialcharts (5 tháng 10 năm 2020). “#ChartFact: @taylorswift13's Folklore is the UK's most downloaded 2020 album release” (Tweet) – qua Twitter.
  211. ^ “Official Vinyl Albums Chart Top 40”. Official Charts Company (bằng tiếng Anh). 28 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  212. ^ White, Jack (31 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift breaks Irish Albums Chart record with Folklore”. Official Charts (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  213. ^ White, Jack (21 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift sees off Biffy Clyro to retain Ireland's Number 1 album”. Irish Recorded Music Association (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  214. ^ “Taylor Swift denies Metallica Irish Number 1”. IRMA (bằng tiếng Anh). 4 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  215. ^ “Ireland's Official Top 50 biggest albums of 2020 so far”. Official Charts Company. 7 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2020.
  216. ^ a b "Ultratop.be – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập July 31, 2020.
  217. ^ a b “CZ – Albums – Top 100” (bằng tiếng Séc). ČNS IFPI. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2022.
  218. ^ a b "Danishcharts.dk – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập August 16, 2020.
  219. ^ a b “Eesti Tipp-40 Muusikas: Popmuusika võtab oma!”. Eesti Ekspress (bằng tiếng Estonia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2020.
  220. ^ a b "Taylor Swift: Folklore" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập August 16, 2020.
  221. ^ a b “Top-75 Albums Sales Chart – Week 14/2021”. IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  222. ^ a b "Norwegiancharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập August 16, 2020.
  223. ^ a b "Swisscharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập August 5, 2020.
  224. ^ a b “Les charts de la Suisse romande” (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2020.
  225. ^ a b “Taylor Swift's "Folklore" Is Now Popular in China, QQ music is becoming this Euramerican star's first choice”. MarketWatch. 28 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.[liên kết hỏng]
  226. ^ Homewood, Ben (3 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift breaks US & global records with Folklore”. Music Week. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.
  227. ^ Stutz, Collin (19 tháng 12 năm 2020). “Lucian Grainge's Year-End Memo: An 'Incredibly Difficult' 2020, Label Successes & His COVID-19 Scare”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  228. ^ “Top 20 Singles”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Malaysia. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Malaysia. 8 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  229. ^ “RIAS International Top Charts Week 31”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm (Singapore). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2020.
  230. ^ “Taylor Swift claims sixth #1 album with folklore” [Taylor Swift có album quán quân thứ sáu với Folklore]. ARIA Charts (bằng tiếng Anh). 1 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  231. ^ “Cardigan lands Taylor Swift sixth #1 single”. ARIA Charts. 1 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  232. ^ “Folklore gives Taylor Swift third week at #1”. ARIA charts. 15 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  233. ^ “Fourth week at #1 for Taylor Swift's Folklore” [Tuần thứ tư ở vị trí số 1 cho Folklore của Taylor Swift]. ARIA (bằng tiếng Anh). 22 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  234. ^ a b “ARIA Top 100 Albums for 2020”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021.
  235. ^ “The Official New Zealand Music Chart (Week of August 3, 2020)”. The Official NZ Music Chart (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  236. ^ “The Official New Zealand Music Chart (Week of August 17, 2020)”. The Official NZ Music Chart (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  237. ^ “The Official New Zealand Music Chart”. The Official NZ Music Chart (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  238. ^ a b “Official Top 40 Albums”. Recorded Music NZ. 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2020.
  239. ^ “Taylor Swift Wins Album of the Year For 'Folklore' at 2021 Grammy Awards” [Taylor Swift chiến thắng Album của năm cho Folklore tại Giải Grammy 2021]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
  240. ^ “2021 GRAMMYs: Complete Nominees List”. GRAMMY.com (bằng tiếng Anh). 24 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2020.
  241. ^ Montgomery, Daniel (9 tháng 1 năm 2021). “Taylor Swift/s 'Cardigan' is Grammys front-runner for Song of the Year, but here's why that would be an unlikely feat” ["Cardigan" của Taylor Swift là ứng cử viên hàng đầu của giải Grammy cho Bài hát của năm, nhưng đây là lý do tại sao điều đó khó có thể xảy ra]. GoldDerby (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  242. ^ a b Shafer, Ellise (22 tháng 11 năm 2020). “American Music Awards 2020: The Full Winners List”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2020.
  243. ^ France, Lisa Respers (23 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift broke her own AMAs record and explained why she couldn't be there” [Taylor Swift tự phá kỷ lục AMA của chính mình và giải thích lý do vì sao cô không thể tham dự]. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020.
  244. ^ “Swift wins top prize at AMAs, says she's re-recording music” [Swift giành giải thưởng cao nhất tại AMA, cho biết cô đang thu âm lại nhạc]. NBC News (bằng tiếng Anh). 23 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020.
  245. ^ “Apple announces second annual Apple Music Awards”. Apple. 18 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2020.
  246. ^ Cooper, Nathanael (13 tháng 10 năm 2020). “From the back of the room to centre stage: Lime Cordiale sweep ARIA nominations”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2020.
  247. ^ Mathiasen, Marie Holm (28 tháng 11 năm 2020). “Her er vinderne ved 'Danish Music Awards' (bằng tiếng Đan Mạch). Nyheder. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020.
  248. ^ Malec, Brett (15 tháng 11 năm 2020). “People's Choice Awards 2020 Winners: The Complete List”. E!. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2020.
  249. ^ “NetEase Cloud Music”. Weibo. 21 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2020.
  250. ^ “Billboard Music Awards”. The Hollywood Reporter. 29 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2021.
  251. ^ “Hvem er dine favoritter? Stem Nu!”. Gaffa (bằng tiếng Đan Mạch). 6 tháng 2 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  252. ^ Warner, Denise (14 tháng 3 năm 2021). “Here Are All the Winners From the 2021 Grammy Awards”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2022.
  253. ^ “ベスト3アルバム”. Gold Disc (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
  254. ^ Gordon, Holly (9 tháng 3 năm 2021). “The Weeknd, JP Saxe, Jessie Reyez and Justin Bieber lead 2021 Juno Award nominations”. CBC Music.
  255. ^ Fields, Taylor (28 tháng 5 năm 2021). “2021 iHeartRadio Music Awards: See The Full List Of Winners”. iHeartRadio.
  256. ^ “2022 TEC Awards Winners”. TEC Awards. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2022.
  257. ^ Sanchez, Alexandra (24 tháng 7 năm 2021). “AFS Explains "What is Folklore?" in Response to Taylor Swift's New Album Release” [AFS giải thích "Văn hóa dân gian là gì?" để phản hồi việc album mới của Taylor Swift được phát hành]. American Folklore Society (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  258. ^ Madden, Emma (19 tháng 10 năm 2022). “A New Taylor Swift LP? Metacritic Crunches the Reviews, as Fans Watch”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
  259. ^ Hyden, Steven (14 tháng 12 năm 2020). “How Taylor Swift Reinvented Herself With 'Folklore' And Now 'Evermore'. Uproxx. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  260. ^ Fagen, Lucas (19 tháng 9 năm 2020). “Taylor Swift's Quarantine Folktales”. Hyperallergic. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  261. ^ Richards, Will (27 tháng 11 năm 2020). 'Folklore: The Long Pond Sessions' review: secrets, songs and self-isolation with Taylor Swift”. NME. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  262. ^ White, Caitlin (8 tháng 12 năm 2020). “Taylor Swift's 'Folklore' Changed The Tone Of Pop In 2020”. Uproxx. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  263. ^ “The First (And Hopefully Last) Quarries In which we award the most scrappy, absurd, ingenious works that shaped our year in quarantine” [Mỏ đá đầu tiên (và hy vọng là cuối cùng), trong đó chúng tôi trao giải cho những tác phẩm vụn vặt, ngớ ngẩn, khéo léo nhất đã định hình nên một năm cách ly của mình.]. Vulture (bằng tiếng Anh). 7 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  264. ^ Maitland, Hayley (1 tháng 9 năm 2020). “The Best, Worst & Downright Ugliest Moments Of Lockdown Culture” [Những khoảnh khắc đẹp nhất, tồi tệ nhất và xấu xí nhất của nền văn hóa phong tỏa]. Vogue (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  265. ^ Lange, Jeva (25 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift has made the first great pandemic art” [Taylor Swift đã thực hiện tác phẩm nghệ thuật đại dịch xuất sắc đầu tiên]. The Week (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  266. ^ “Who have been the most influential women of 2020? FT readers respond” [Ai là người phụ nữ có ảnh hưởng nhất năm 2020? Độc giả của FT phản hồi]. Financial Times (bằng tiếng Anh). 6 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  267. ^ “Hot Press Albums of 2020: The Top 10” [Album Hot Press năm 2020: Top 10]. Hot Press (bằng tiếng Anh). 30 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  268. ^ Hull, Tom (27 tháng 7 năm 2020). “Music Week” [Tuần lễ âm nhạc]. Tom Hull – on the Web (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  269. ^ Havens, Lyndsey (29 tháng 12 năm 2020). “Taylor Swift, Dua Lipa and More Innovated In the Pandemic — But What Strategies Will Stick?” [Taylor Swift, Dua Lipa và nhiều nghệ sĩ khác đã đột phá trong đại dịch — Nhưng chiến lược nào sẽ hữu dụng?]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  270. ^ “The 25 Musical Moments That Defined the First Quarter of the 2020s” [25 khoảnh khắc âm nhạc định nghĩa quý đầu tiên của thập niên 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). 5 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  271. ^ “Opinion | 17 Pop Culture Moments That Define The Covid Era” [Ý kiến | 17 khoảnh khắc văn hóa đại chúng định hình kỷ nguyên COVID]. The New York Times (bằng tiếng Anh). 8 tháng 4 năm 2023. ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  272. ^ Countryman, Eli (16 tháng 12 năm 2020). “Taylor Swift Opens Up About the Creation of 'Evermore'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2020.
  273. ^ “Genius Year in Lyrics: The Top Albums Of 2020”. Genius. 30 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2020.
  274. ^ “Genius Year in Lyrics: The Top Artists Of 2020”. Genius. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  275. ^ Christman, Ed (19 tháng 7 năm 2021). “Billboard's 2020 Global Money Makers: The 5 Top Highest Paid Musicians”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  276. ^ Christman, Ed (19 tháng 7 năm 2021). “Billboard's U.S. Money Makers: The Top Paid Musicians of 2020” [Giới kiếm tiền tại Hoa Kỳ của Billboard: Những nhạc sĩ được trả lương cao nhất năm 2020]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2021.
  277. ^ Ruggieri, Melissa (18 tháng 3 năm 2023). “Taylor Swift rewards fans with 44 songs at Eras Tour opener: Inside her triumphant return” [Taylor Swift tri ân người hâm mộ 44 ca khúc tại lễ khai mạc The Eras Tour: Bên trong sự trở lại đầy thắng lợi của cô]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  278. ^ “Hayley Williams is releasing 'Flowers For Vases / Descansos' tomorrow” [Hayley Williams sẽ phát hành Fflowers For Vases / Descansos vào ngày mai]. NME (bằng tiếng Anh). 5 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  279. ^ Rossignol, Derrick (8 tháng 8 năm 2020). “Phoebe Bridgers Hilariously Compared Taylor Swift's New Music And Hers” [Phoebe Bridgers so sánh nhạc mới của Taylor Swift với nhạc của mình một cách hài hước]. Uproxx (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  280. ^ “What Will Be The Impact Of Olivia Rodrigo's "Drivers License" And Its Historically Massive Debut?”. Stereogum. 18 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2021.
  281. ^ Curto, Justin (11 tháng 1 năm 2021). “Olivia Rodrigo's 'Drivers License' Is Nothing New – of Course It's a Hit”. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2021.
  282. ^ “Zahara dedica a Taylor Swift el adelanto de su próximo disco” [Zahara gửi lời tri ân quá trình phát triển album tiếp theo của mình tới Taylor Swift]. Chicago Tribune (bằng tiếng Tây Ban Nha). 12 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  283. ^ Balen, Ida (20 tháng 2 năm 2022). “Mia Dimšić za RTL nakon plasmana na Eurosong: 'Nisam plagirala Taylor Swift, ali njena pjesma mi je bila inspiracija'. Vijesti.hr (bằng tiếng Croatia). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  284. ^ Cindrić, Marija; Paponja, Tea (20 tháng 2 năm 2022). “Mia Dimšić o kritikama: 'Meni svaka usporedba s Taylor Swift može bit samo kompliment'. 24sata (bằng tiếng Croatia). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
  285. ^ “Christina Perri on New Single 'Evergone' and the Influence of Taylor Swift's Folklore and Evermore [Christina Perri nói về đĩa đơn mới "Evergone" và niềm ảm hứng từ FolkloreEvermore của Taylor Swift]. Consequence (bằng tiếng Anh). 25 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  286. ^ “Sabrina Carpenter on 'Let Me Move You': The Travel Millis Show” (bằng tiếng Anh). Apple Music. 10 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2022.
  287. ^ Irvin, Jack (31 tháng 5 năm 2022). “Rina Sawayama Says the 'Fake Stories' of Taylor Swift's Folklore Inspired Her New Album Hold the Girl. People. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2022.
  288. ^ Rowley, Glenn (30 tháng 3 năm 2022). “A 'Bridgerton' Writer Used This Taylor Swift Folklore Deep Cut as Inspiration” [Một nhà biên kịch của Bridgerton đã sử dụng một bản cắt trong Folklore của Taylor Swift làm nguồn cảm hứng]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  289. ^ Krueger, Jonah (20 tháng 7 năm 2022). “Maya Hawke on Being Inspired by Taylor Swift's Folklore, Finding Confidence, and Stranger Things”. Consequence. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
  290. ^ Robert, Moran; Shand, John; Au-Nhien Nguyen, Giselle; Ross, Annabel (28 tháng 9 năm 2022). “What to listen to this month: A worthwhile album from a nepo baby? Stranger things happen”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  291. ^ Shafer, Ellise (5 tháng 4 năm 2022). “Gracie Abrams on How Songwriting Is 'Like Breathing', Touring With Friend Olivia Rodrigo and Making New Music With Aaron Dessner”. Variety. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  292. ^ Curto, Justin (8 tháng 3 năm 2022). “Ed Sheeran Is Working on His Folklore [Ed Sheeran đang thực hiện một Folklore của riêng mình]. Vulture (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  293. ^ a b “Recording's Great Escapes: Inside The World's Most Scenic, State-of-the-Art Studios”. Billboard. 10 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  294. ^ Holden, Finlay (3 tháng 10 năm 2022). “Girl in Red has announced that a new single, 'October Passed Me By', is due next week” [Girl in Red thông báo đĩa đơn mới "October Passed Me By" sẽ ra mắt vào tuần tới]. Dork (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  295. ^ a b Folklore (booklet). Taylor Swift. Hoa Kỳ: Republic Records. 2020. B003271102.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  296. ^ a b folklore on TIDAL”. Tidal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  297. ^ a b “フォークロア [スペシャル・エディション] [CD] [+DVD]” [Folklore (Special Edition) [CD] [+DVD]] (bằng tiếng Nhật). Universal Music Japan. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  298. ^ “Los discos más vendidos de la semana”. Diario de Cultura (bằng tiếng Tây Ban Nha). Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2020.
  299. ^ "Australiancharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập August 9, 2020.
  300. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập August 5, 2020.
  301. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập July 31, 2020.
  302. ^ "Taylor Swift Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập August 4, 2020.
  303. ^ “Lista prodaje 37. tjedan 2020” (bằng tiếng Croatia). Top of the Shops. 21 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
  304. ^ "Dutchcharts.nl – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập July 31, 2020.
  305. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập August 16, 2020.
  306. ^ "Offiziellecharts.de – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập August 14, 2020.
  307. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2020. 31. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập August 8, 2020.
  308. ^ “Tónlistinn – Plötur | Vika 31 – 2020” (bằng tiếng Iceland). Plötutíðindi. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2020.
  309. ^ "Official Irish Albums Chart Top 50". Official Charts Company. Truy cập July 31, 2020.
  310. ^ "Italiancharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập August 16, 2020.
  311. ^ “Folklore on Billboard Japan Hot Albums”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2020.
  312. ^ “Taylor Swift”. Oricon. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2020.
  313. ^ “ALBUMŲ TOP100” (bằng tiếng Litva). AGATA. 31 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2020.
  314. ^ "Charts.nz – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập August 16, 2020.
  315. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập August 21, 2020.
  316. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập August 22, 2020.
  317. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập July 31, 2020.
  318. ^ “SK – Albums – Top 100” (bằng tiếng Séc). ČNS IFPI. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
  319. ^ “Gaon Album Chart – Week 36, 2020”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.
  320. ^ "Spanishcharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập August 4, 2020.
  321. ^ "Swedishcharts.com – Taylor Swift – Folklore" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập July 31, 2020.
  322. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập July 31, 2020.
  323. ^ "Official Americana Albums Chart Top 40" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập June 4, 2021.
  324. ^ “Rankings (Septiembre 2020)” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Cámara Uruguaya del Disco. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2020.
  325. ^ "Taylor Swift Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập August 4, 2020.
  326. ^ "Taylor Swift Chart History (Top Alternative Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập August 8, 2020.
  327. ^ “Taylor Swift Chart History (US Top Rock & Alternative Albums)”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  328. ^ “Ö3 Austria Top40 Longplay 2020”. Ö3 Austria Top 40. 8 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2020.
  329. ^ “Jaaroverzichten 2020”. Ultratop. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  330. ^ “Top Canadian Albums – Year-End 2020”. Billboard. 2 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2020.
  331. ^ “Inozemna izdanja – Godišnja lista 2020” [Foreign editions - Annual list 2020] (bằng tiếng Croatia). Top of the Shops. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2021.
  332. ^ “Album Top-100 2020”. Hitlisten. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2021.
  333. ^ “Jaaroverzichten – Album 2020” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Charts. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2021.
  334. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts 2020” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  335. ^ White, Jack (10 tháng 1 năm 2021). “Ireland's Official Top 50 biggest albums of 2020”. Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2021.
  336. ^ “Topplista – årsliste – Album 2020” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Norway. 3 tháng 12 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2021.
  337. ^ “Top Vendas Acumuladas – 2020 (semana 1 a 53) – Top 100 Álbuns” [Top Accumulated Sales 2020 (Week 1 to 53) – Top 100 Albums] (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
  338. ^ “Top 100 Albumes Anual 2020”. El portal de Música. Productores de Música de España. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021.
  339. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2020”. Schweizer Hitparade. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2020.
  340. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2020”. Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
  341. ^ “ARIA Top 100 Albums for 2021”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  342. ^ “Jaaroverzichten 2021”. Ultratop. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
  343. ^ “Top Canadian Albums – Year-End 2021”. Billboard. 2 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2021.
  344. ^ “Album Top-100 2021”. Hitlisten. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2022.
  345. ^ “Jaaroverzichten – Album 2021” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Charts. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2022.
  346. ^ Griffiths, George (9 tháng 1 năm 2022). “Ireland's official biggest albums of 2021”. Official Charts Company. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2022.
  347. ^ “Top Selling Albums of 2021”. Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2022.
  348. ^ “Top Vendas Acumuladas – 2021 – Top 100 Álbuns” [Top Accumulated Sales 2021 – Top 100 Albums] (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. tr. 3. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2022.
  349. ^ “Top 100 Albums Annual 2021”. El portal de Música. Productores de Música de España. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  350. ^ Griffiths, George (4 tháng 1 năm 2022). “The Official Top 40 biggest albums of 2021”. Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2022.
  351. ^ “Top Billboard 200 Albums – Year-End 2021”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2021.
  352. ^ “Top Alternative Albums – Year-End 2021”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2021.
  353. ^ “ARIA Top 100 Albums Chart for 2022”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
  354. ^ “Jaaroverzichten 2022”. Ultratop. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2023.
  355. ^ “Top Canadian Albums – Year-End 2022”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2022.
  356. ^ “Album Top-100 2022”. Hitlisten. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2023.
  357. ^ “Jaaroverzichten – Album 2022”. dutchcharts.nl (bằng tiếng Hà Lan). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
  358. ^ “Top Selling Albums of 2022”. Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2022.
  359. ^ “Top 100 Álbuns – Semanas 1 a 52 – De 31/12/2021 a 29/12/2022” (PDF). Audiogest (bằng tiếng Bồ Đào Nha). tr. 1. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2023.
  360. ^ “Top 100 Albums Annual 2022”. El portal de Música. Productores de Música de España. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2023.
  361. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2022”. Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2023.
  362. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2022”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2022.
  363. ^ “Top Alternative Albums – Year-End 2022”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  364. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2021 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  365. ^ “Chứng nhận album Áo – Taylor Swift – Folklore” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  366. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2022” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  367. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Taylor Swift – Folklore” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  368. ^ “Chứng nhận album Ý” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023. Chọn "2022" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  369. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Taylor Swift – Folklore” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  370. ^ “Chứng nhận album Na Uy – Taylor Swift – Folklore” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2021.
  371. ^ “OLiS - oficjalna lista wyróżnień” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023. Click "TYTUŁ" and enter Folklore in the search box.
  372. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha – Taylor Swift – Folklore”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  373. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Taylor Swift – Folklore” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  374. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Taylor Swift – Folklore” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  375. ^ Bailey, Alyssa (23 tháng 7 năm 2020). “Taylor Swift Announces She'll Be Dropping Her 8th Album Folklore at Midnight and Shares Tracklist”. Elle. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2020.
  376. ^ “Taylor Swift's Folklore gets early CD release in the UK”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
  377. ^ “フォークロア [CD]” [Folklore [CD]] (bằng tiếng Nhật). Universal Music Japan. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]









ApplySandwichStrip

pFad - (p)hone/(F)rame/(a)nonymizer/(d)eclutterfier!      Saves Data!


--- a PPN by Garber Painting Akron. With Image Size Reduction included!

Fetched URL: http://vi.wikipedia.org/wiki/Folklore_(album)

Alternative Proxies:

Alternative Proxy

pFad Proxy

pFad v3 Proxy

pFad v4 Proxy